Cobemide

Thành phần
Nikethamide 125mg; Glucose 1500mg
Dạng đóng gói
Hộp 5 vỉ x 4 viên nén ngậm
Sản xuất
Công ty Dược & trang thiết bị Y tế Bình Định (BIDIPHAR) - VIỆT NAM
Số đăng ký
VD-10984-10

    Hướng dẫn dùng thuốc có thành phần Nikethamide

    Nhóm thuốc
    Thuốc tim mạch
    Thành phần
    Nikethamide
    Tác dụng của Nikethamide
    Nikethamid kích thích TKTW ưu tiên trên hành tuỷ, đặc biệt trên trung tâm hô hấp và tuần hoàn, làm tăng nhịp thở, tăng độ nhạy cảm CO2 của trung tâm hô hấp, tăng sức co bóp cơ tim, tăng nhịp tim, tăng nhẹ huyết áp.
    Nikethamid ở liều cao kích thích toàn bộ thần kinh trungương gây các cơn co giật rung.
    Chỉ định khi dùng Nikethamide
    Các trường hợp sốc, ngạt, trúng độc, mất nhịp tim, suy hô hấp & tuần hoàn ở người mới ốm dậy, bị ngộ độc do thuốc ngủ hoặc khi nghỉ dùng các glycosid tim.
    Cách dùng Nikethamide
    Thuốc tiêm:
    Tiêm dưới da hoặc tiêm tĩnh mạch; Người lớn: 1-2 mL/lần; Trẻ em: 0,1 mL/kg/lần.
    Viên ngậm:Người lớn: 1 – 2 viên x 2 – 3 lần/ngày.
    Chống chỉ định với Nikethamide
    Quá mẫn với nikethamide. Tăng huyết áp động mạch, động kinh, hen, suy hô hấp do các bệnh thần kinh hoặc do dùng thuốc quá liều, nhiễm độc do tuyến giáp, phụ nữ có thai.
    Tương tác thuốc của Nikethamide
    Có thể cho phản ứng doping (+).
    Tác dụng phụ của Nikethamide
    Buồn nôn, co giật, bồn chồn, chóng mặt, co mạch, loạn nhịp.

    Hướng dẫn dùng thuốc có thành phần Glucose

    Nhóm thuốc
    Dung dịch điều chỉnh nước điện giải và cân bằng Acid-Base
    Thành phần
    Glucose
    Dược lực của Glucose
    Glucose là thuốc dịch truyền/chất dinh dưỡng.
    Dược động học của Glucose
    Sau khi uống, glucose hấp thu rất nhanh ở ruột. Ở người bệnh bị hạ đường huyết thì nồng độ đỉnh trong huyết tương xuất hiện 40 phút sau khi uống. Glucose chuyển hóa thành carbon dioxyd và nước đồng thời giải phóng ra năng lượng.
    Tác dụng của Glucose
    Glucose là đường đơn 6 carbon, dùng theo đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch để điều trị thiếu hụt đường và dịch. Glucose thường được ưa dùng để cung cấp năng lượng theo đường tiêm cho người bệnh và dùng cùng với các dung dịch điện giải để phòng và điều trị mất nước do ỉa chảy cấp. Glucose còn được sử dụng để điều trị chứng hạ đường huyết. Khi làm test dung nạp glucose, thì dùng glucose theo đường uống. Các dung dịch glucose còn được sử dụng làm chất vận chuyển các thuốc khác.
    Nuôi dưỡng đường tĩnh mạch có thể thực hiện qua tĩnh mạch ngoại vi hoặc tĩnh mạch trung tâm lớn hơn. Chỉ định dùng qua đường tĩnh mạch ngoại vi khi chỉ cần nuôi dưỡng bệnh trong một thời gian ngắn hoặc khi bổ trợ thêm cho nuôi dưỡng theo đường tiêu hóa hoặc khi người bệnh có nhiều nguy cơ tai biến nếu truyền qua đường tĩnh mạch trung tâm. Các tĩnh mạch ngoại vi dễ bị viêm tắc, nhất là khi dung dịch có độ thẩm thấu lớn hơn 600 mOsm/lít, do đó không nên truyền vào tĩnh mạch ngoại vi các dịch truyền có nồng độ glucose cao hơn 10%. Phải truyền các dung dịch glucose ưu trương cho người bệnh suy dinh dưỡng hoặc có tăng chuyển hóa, theo đường tĩnh mạch trung tâm, vì ở đấy dung dịch glucose được pha loãng nhanh hơn.
    Không được truyền dung dịch glucose ưu trương cho người bệnh bị mất nước vì tình trạng mất nước sẽ nặng thêm do bị lợi niệu thẩm thấu.
    Điều trị glucose cho người bệnh suy dinh dưỡng, hoặc người bệnh rối loạn chuyển hóa do stress sau mổ phải bắt đầu từ từ do khả năng sử dụng glucose của người bệnh tăng lên dần dần. Nhiều người bệnh được nuôi dưỡng theo đường tiêm truyền bị tăng đường huyết. Cần phải xác định nguyên nhân và điều chỉnh bằng các biện pháp không phải insulin trước khi sử dụng insulin nếu có thể được. Cần truyền tốc độ đều đều không ngừng đột ngột, tránh thay đổi đường huyết. Tuy insulin làm tăng tác dụng nuôi dưỡng theo đường tiêm truyền, nhưng vẫn cần phải thận trọng khi dùng để tránh nguy cơ hạ đường huyết và do insulin làm tăng lắng đọng acid béo ở các mô dự trữ mỡ khiến cho chúng ít vào được các đường chuyển hóa quan trọng. Nếu cần thiết, có thể tiêm insulin vào dưới da hoặc vào tĩnh mạch, hoặc cho thêm vào dịch truyền nuôi dưỡng. Một khi người bệnh đã ổn định với một liều insulin nhất định thì tiêm insulin riêng rẽ sẽ có lợi hơn về kinh tế; tránh lãng phí phải bỏ dịch truyền khi cần thay đổi liều insulin. Dùng insulin người là tốt nhất vì ít ảnh hưởng đến miễn dịch nhất. Liều dùng insulin là theo kinh nghiệm và điều kiện thực tế (ví dụ có thể dùng một nửa hoặc một phần ba liều cần dùng ngày hôm trước cùng với dịch truyền nuôi dưỡng hàng ngày). Cần tôn trọng các bước chuẩn bị và pha dịch truyền để giảm thiểu biến động hoạt tính của insulin do hiện tượng hấp phụ gây ra.
    Chỉ định khi dùng Glucose
    Thiếu hụt carbohydrat và dịch.
    Mất nước do ỉa chảy cấp.
    Hạ đường huyết do suy dinh dưỡng, do ngộ độc rượu, do tăng chuyển hóa khi bị stress hay chấn thương.
    Làm test dung nạp glucose (uống).
    Cách dùng Glucose
    Liều dùng thay đổi tùy theo nhu cầu của từng người bệnh.
    Phải theo dõi chặt chẽ đường huyết của người bệnh. Liều glucose tối đa khuyên dùng là 500 – 800mg cho 1kg thể trọng trong 1 giờ. Dung dịch glucose 5% là đẳng trương với máu và được dùng để bù mất nước; có thể truyền vào tĩnh mạch ngoại vi. Dung dịch glucose có nồng độ cao hơn 5% là ưu trương với máu và được dùng để cung cấp năng lượng (dung dịch 50% dùng để điều trị những trường hợp hạ đường huyết nặng). Phải truyền các dung dịch ưu trương qua tĩnh mạch trung tâm. Trong trường hợp cấp cứu hạ đường huyết có khi phải truyền vào tĩnh mạch ngoại vi nhưng cần phải truyền chậm (tốc độ truyền dung dịch glucose 50% trong trường hợp này chỉ nên 3ml/phút). Trong nuôi dưỡng theo đường tĩnh mạch, có thể truyền dung dịch glucose đồng thời với các dung dịch có acid amin hoặc nhũ tương mỡ (truyền riêng rẽ hoặc cùng nhau bằng hỗn hợp “3 trong 1” chứa trong cùng một chai). Để làm giảm áp lực não – tủy và phù não do ngộ độc rượu, dùng dung dịch ưu trương 25 đến 50%. Dùng insulin kèm thêm là tùy trường hợp; nếu dùng insulin thì phải theo dõi thường xuyên đường huyết của người bệnh và điều chỉnh liều insulin.
    Thận trọng khi dùng Glucose
    Phải theo dõi đều đặn đường huyết, cân bằng nước và các chất điện giải. Cần bổ sung các chất điện giải nếu cần.
    Không truyền dung dịch glucose cùng với máu qua một bộ dây truyền vì có thể gây tan huyết và tắc nghẽn.
    Truyền glucose vào tĩnh mạch có thể dẫn đến rối loạn dịch và điện giải như hạ kali huyết, hạ magnesi huyết, hạ phospho huyết.
    Truyền lâu hoặc truyền nhanh một lượng lớn dung dịch glucose đẳng trương có thể gây phù hoặc ngộ độc nước.
    Truyền kéo dài hoặc nhanh một lượng lớn dung dịch glucose ưu trương có thể gây mất nước tế bào do tăng đường huyết.
    Thời kỳ mang thai:
    Dùng được cho người mang thai.
    Thời kỳ cho con bú:
    An toàn đối với người cho con bú.
    Chống chỉ định với Glucose
    Người bệnh không dung nạp được glucose.
    Mất nước nhược trương nếu chưa bù đủ các chất điện giải.
    Ứ nước.
    Kali huyết hạ.
    Hôn mê tăng thẩm thấu.
    Nhiễm toan.
    Người bệnh vô niệu, người bệnh bị chảy máu trong sọ hoặc trong tủy sống (không được dùng dung dịch glucose ưu trương cho các trường hợp này).
    Mê sảng rươu kèm mất nước, ngộ độc rượu cấp.
    Không được dùng dung dịch glucose cho người bệnh sau cơn tai biến mạch não vì đường huyết cao ở vùng thiếu máu cục bộ chuyển hóa thành acid lactic làm chết tế bào não.
    Tác dụng phụ của Glucose
    Thường gặp: đau tại chỗ tiêm.
    Kích ứng tĩnh mạch, viêm tắc tĩnh mạch.
    Ít gặp: rối loạn nước và điện giải (hạ kali huyết, hạ magnesi huyết, hạ phospho huyết).
    Hiếm gặp: phù hoặc ngộ độc nước (do truyền kéo dài hoặc truyền nhanh một lượng lớn dung dịch đẳng trương).
    Mất nước do hậu quả của đường huyết cao (khi truyền kéo dài hoặc quá nhanh các dung dịch ưu trương).
    Bảo quản Glucose
    Không bảo quản glucose ở nhiệt độ trên 25 độ C.