Nutriflex plus

Nhóm thuốc
Dung dịch điều chỉnh nước điện giải và cân bằng Acid-Base
Thành phần
các acid amin, glucose và các chất điện giải
Dạng bào chế
Dịch truyền
Dạng đóng gói
Túi nhựa 1000ml, 2000ml
Sản xuất
B.Braun Medical AG
Đăng ký
B.Braun Medical Industries S.B - MA LAI XI A
Số đăng ký
VN-7468-09
Chỉ định khi dùng Nutriflex plus
Cung cấp cho nhu cầu hàng ngày về năng lượng, amino acid, điện giải và dịch trong nuôi dưỡng ngoài đường tiêu hoá cho bệnh nhân bị dị hoá nặng vừa phải, khi nuôi dưỡng theo đường miệng hoặc đường ruột là không thế, không đầy đủ hoặc bị chống chỉ định. Các đặc tính được lực họcDo được truyền theo đường tĩnh mạch, vì vậy các thành phần trong Nutriflex plus đều sẵn sàng cho việc chuyển hoá ngay lập tức. Chất điện giải có sẵn với đủ số lượng để chống đỡ quá trình sinh hóa lớn khi cần thiết.Một phần của amino acid được sử dung để tổng hợp protein, các amino acid mà không tham gia vào quá trình tổng hợp protein được chuyển hoá như sau: gốc amino được tách khỏi khung carbon nhờ sự chuyển hoá amin. Chuối carbon cũng được oxy hoá trực tiếp thành COỵ hoặc được sử dung như là chất nền cho sự tấn tạo glucose trong gan. Gốc amino cũng được chuyển hoá trong gan nơi mà chúng được sử dung để tổng hợp ure hoặc các aminoacid không thiết yếu.Glucose được chuyển hoá thành C02 và H20 theo các đường chuyển hoá đã được biết đến. Một phần glucose được sử dụng cho tổng hợp lipid.Các đặc tính được động họcMã ATC là B 05BA10 (dung dịch kết hợp dùng cho dinh dưỡng ngoài đường tiêu hoá).Dinh dưỡng ngoài đường tiêu hoá là cung cấp cho cơ thể các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển và tái tạo của mô.Các amino acid có vai trò quan trọng đặc biệt do đó là những thành phần thiết yếu cho tổng hợp protein. Tuy nhiên, yêu cầu đảm bảo việc sử dụng tối ưu dùng nguồn năng lượng các amino acid. Điều này có thế được thực hiện một phần ở  dạng carbonhydrat. Khi glucose được tận dụng trực tiếp, đó là sự lựa chọn carbonhydrat. Nảng lượng bố sung được cung cấp lí tưởng ở dạng chất béo. Chất điện giải được dùng để duy trì các chức năng chuyển hóa và sinh lí học.
Cách dùng Nutriflex plus
Liều dùng phải thích hợp với nhu cầu của từng bệnh nhân.Liều tối đa hàng ngày 40 ml/kg thể trọng, tương đương với- 1,92 g amino acid/kg thể trọng 1 ngày- 6,0 g glucose /kg thể trọng 1 ngàyĐược khuyến cáo rằng Nutriflex plus phải được dùng liên tục.Tốc độ truyền tối đa là 2,0 ml/kg thể trọng 1 giờ, tương đương với- 0,096 g amino acid /kg thể trọng 1 giờ- 0,3 g glucose/kg thể trọng 1 giờVới bệnh nhân nặng 70 kg tương đương với tốc độ truyền 140 ml1 giờ. Khi đó lượngamino acid được truyền là 6,72 g/giờ và glucose là 21,0 g/giờ.Việc điều chỉnh liều theo từng cá thế là cần thiết ở những bện nhân suy gan và thận(xem phần ”Cảnh báo đặc biệt và thận trọng khi sử dụng”).Nếu như việc oxy hoá glucose bị suy yếu, có thể gặp trong trường hợp sau phẫuthuật hoặc giai đoạn sau chấn thương hoặc bị giảm oxy huyết hoặc suy chức năngcơ quan, lượng glucose đưa vào nên được giới hạn từ 2 - 4 g glucose/kg thể trọng/ngày. Nống độ đường huyết không nên vượt quá 6,1 mmol/l (110 mg/100 ml).Nhu cầu thêm về dịch ở trẻ em nên được đáp ứng với lượng dịch bố sung thíchhợp, vì liều Nutriflex plus tối đa hàng ngày trên 40 ml/kg thế trọng/ngày có thế làmvượt quá liều tối đa hàng ngày của amino acid ở đối tượng này (1,5 - 2,5 g/kg thếtrọng/ngày).Thời gian sử dụngThời gian điều trị cho các chỉ định đưa ra là không bị giới hạn.Trong điều trị dài hạnvới Nutriflex plus, cần thiết phải bố sung thêm năng lượng một cách thích hợp dướidạng lipid, các acid béo cần thiết, các nguyên tố vi lượng và vitamin.Cách dùngDùng đường tĩnh mạch.Truyền qua catheter tĩnh mạch trung tâm.Hướng dẫn sứ dụng, vận chuyểnNgay trước khi sử dụng, đường hàn bên trong giữa hai buồng mới được mở đểthuốc ở hai buồng được trộn lẫn vào nhau một cách vô trùng.Lấy túi ra khỏi túi bảo vệ và tiến hành như sau:- mở rộng túi và đặt lên bề mặt cứng- bóc tách đường hàn bằng cách ấn bằng cả hai tay- trộn các thuốc trong túi với nhau.Sau khi truyền, dung dịch còn thừa không được giữ để dùng lại. Chỉ những dungdịch tuyệt đối trong ở những túi còn nguyên vẹn mới được sử dung.Cấu trúc của túi hai buồng cho phép trộn lẫn amino acid, glucose và chất béo ớbuồng phía dưới. Nếu cần thiết có thể thêm các chất điện giái.Thống thường, cáclưu ý về vấn đề vô khuẩn trong khi trộn lẫn các dung dịch hoặc nhũ tương béothành Nutriflex plus cần phải được theo dõi chặt chẽ. Nhũ tương béo có thế đượctrộn một cách dễ dàng bằng một kiểu di chuyển đặc biệt.Quá liềuSẽ không bị quá liều Nutriflex plus nếu dùng thuốc đúng cách.Các triệu chứng của quá liều nước và điện giải:Ư nước ưu trường, mất cân bằng điện giải và phù phối.Các triệu chứng của quá liều amino acid:Mất amino acid qua thận cùng với sự mất cân bằng amino acid liên tục, mệt mỏi,nôn và run rẩy.Các triệu chứng của quá liều glucose:Tảng đường huyết, có glucose trong nước tiểu, mất nước, tăng áp lực thẩm thấu,hôn mê do tăng đường huyết và tăng áp lực thẩm thấu.Điểu trị:Ngừng truyền ngay lập tức được chỉ định cho quá liều. Các biện pháp điều trị thêmtuỳ thuộc vào các triệu chứng riêng biệt và mức độ nặng của chúng. Khi việc truyềnđược chỉ định sau khi các triệu chứng đã giảm, khuyến cáo rằng tốc độ truyền nênđược tăng từ từ có kiểm soát theo thời gian.
Chống chỉ định với Nutriflex plus
Thuốc không được dùng trong những trường hợp sau:
- những sai sót bẩm sinh về chuyển hoá amino acid,
- lượng điện giải trong huyết thanh bị tăng cao bệnh lý,
- chuyển hoá không ổn định (vídụ như đái tháo đường mất bù, nhiễm toan chuyển
hoá),
- hôn mê không rõ nguyên nhân,
- tăng đường huyết không đáp ứng với insulin với liều lên tới 6 đơn vị insulin/giờ,
- suy gan nặng,
- suy thận nặng mà không có liệu pháp thay thế,
- được biết quá mẫn với bất cứthành phần nào của thuốc.
Do thành phần của nó mà thuốc không nên dùng cho trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và trẻ em dưới 2 tuổi.
Các chng chỉ định chung cho nuôi dưỡng ngoài đường tiêu hoá là:
- tình trạng tuần hoàn không ổn định đe doạ đến tính mang (tình trạng suy kiệt và
sốc),
- giảm oxy mô tế bào,
- ứ nước,
- phù phổicấp,
- suy tim mất bù.
Tác dụng phụ của Nutriflex plus
Tác dụng không mong muốn với các thành phần của Nutriflex plus là hiếm gặp và thường liên quan đến việc dùng liều không đúng và/hoặc tốc độ truyền. Các tác dụng không mong muốn xuất hiện thường không tiến triển và phục hồi khi ngừng truyền. Buốn nôn hoặc nôn đôi khi có thể xảy ra.Trong trường hợp truyền ép buộc đái nhiều do áp lực thẩm thấu có thể xuất hiện do hậu quả của áp lực thẩm thấu cao.
Nếu những tác dụng phụ này xảy ra thì nên ngừng truyền hoặc nếu thích hợp thì nên truyền tiếp với liều thấp hơn.
Nuối dường ngoài đường tiêu hoá cho những bệnh nhân suy dinh đưỡng hoặc suy kiệt với đúng liều và tốc độ truyền ngay từ đầu mà không có sự bố sung thích hợp kali, magie và photpho có thể dẫn đến hội chứng nuối ăn lại, thế hiện bởi hạ kali huyết, hạ photpho huyết và hạ magie huyết. Các biểu hiện lâm sáng có thế tiến triển trong vòng vài ngày từ khi bắt đầu nuôi dưỡng ngoài đường tiêu hoá và có thế bao gồm cả thiếu máu tan huyết do hạ photpho huyết và ngủ lờ mờ. Xem thêm
phần “Cảnh báo đặc biệt và thận trọng khi sử dụng”.
Dừng đột ngột việc truyền nhanh glucose trong khi nuôi dưỡng ngoài đường tiêu hoá có thể dẫn đến hạ glucose huyết, đặc biệt ở trẻ dưới 3 tuổi và ở bệnh nhân chuyển hoá glucose bị rối loạn.
Thống báo cho bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.
Đề phòng khi dùng Nutriflex plus
Nền thận trọng trong trường hợp bị tăng áp lực thẩm thấu huyết thanh.
Củng như với các dung dịch truyền thể tích lớn, Nutriflex plus nên được dùng một cách thận trọng cho bệnh nhân bị suy chức năng tim hoặc thận.
Các rối loạn về chuyển hoá dịch và điện giải (ví dụ như mất nước nhược trường, hạ natri huyết) nên được điều chỉnh trước khi dùng Nutriflex plus.
Truyền quá nhanh có thể dẫn đến quá tải về dịch với nồng độ điện giải trong huyết thanh ở mức bệnh lý, tình trạng ứ nước và phù phổi.
Với những bệnh nhân bị suy thận, liều dùng cần được điều chỉnh một cách thận trong tuỳ theo nhu cầu từng cá nhân, mức độ nặng của bệnh và loại liệu pháp thay
thếthận đang được áp dụng (thầm tách máu, lọc máu, …).
Tương tự như vậy với những bệnh nhân bị suy gan liều dùng cần được điều chỉnh một cách thận trong tuỳ theo nhu cầu từng cá nhân, mức độ nặng của bệnh.
Củng như với tất cả các dung dịch chứa carbohydrat, việc sử dung Nutriflex plus có thể dẫn đến tăng đường huyết. Nông độ glucose trong máu nên được kiểm tra. Nếu có tăng đường huyết thì nên giảm tốc độ truyền hoặc dùng insulin.
Đề tránh xảy ra hội chứng nuôi ăn lại ở những bệnh nhân suy dinh đường hoặc suy
kiệt (xem phần “Tác dụng không mong muốn”), việc dinh dưỡng ngoài đường tiêu
hoá nên được thiết lập từ từ một cách thận trong. Việc thay thế đầy đủ kali, magie và photphat cần được đảm bảo.
Việc truyền tĩnh mạch amino acid đồng thời với việc tăng bài tiết các yếu tố vi lượng qua nước tiểu đặc biệt là đồng và kẽm. Điều này nên được xem xét trong liều dùng

Hướng dẫn dùng thuốc có thành phần glucose

Nhóm thuốc
Dung dịch điều chỉnh nước điện giải và cân bằng Acid-Base
Thành phần
Glucose
Dược lực của Glucose
Glucose là thuốc dịch truyền/chất dinh dưỡng.
Dược động học của Glucose
Sau khi uống, glucose hấp thu rất nhanh ở ruột. Ở người bệnh bị hạ đường huyết thì nồng độ đỉnh trong huyết tương xuất hiện 40 phút sau khi uống. Glucose chuyển hóa thành carbon dioxyd và nước đồng thời giải phóng ra năng lượng.
Tác dụng của Glucose
Glucose là đường đơn 6 carbon, dùng theo đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch để điều trị thiếu hụt đường và dịch. Glucose thường được ưa dùng để cung cấp năng lượng theo đường tiêm cho người bệnh và dùng cùng với các dung dịch điện giải để phòng và điều trị mất nước do ỉa chảy cấp. Glucose còn được sử dụng để điều trị chứng hạ đường huyết. Khi làm test dung nạp glucose, thì dùng glucose theo đường uống. Các dung dịch glucose còn được sử dụng làm chất vận chuyển các thuốc khác.
Nuôi dưỡng đường tĩnh mạch có thể thực hiện qua tĩnh mạch ngoại vi hoặc tĩnh mạch trung tâm lớn hơn. Chỉ định dùng qua đường tĩnh mạch ngoại vi khi chỉ cần nuôi dưỡng bệnh trong một thời gian ngắn hoặc khi bổ trợ thêm cho nuôi dưỡng theo đường tiêu hóa hoặc khi người bệnh có nhiều nguy cơ tai biến nếu truyền qua đường tĩnh mạch trung tâm. Các tĩnh mạch ngoại vi dễ bị viêm tắc, nhất là khi dung dịch có độ thẩm thấu lớn hơn 600 mOsm/lít, do đó không nên truyền vào tĩnh mạch ngoại vi các dịch truyền có nồng độ glucose cao hơn 10%. Phải truyền các dung dịch glucose ưu trương cho người bệnh suy dinh dưỡng hoặc có tăng chuyển hóa, theo đường tĩnh mạch trung tâm, vì ở đấy dung dịch glucose được pha loãng nhanh hơn.
Không được truyền dung dịch glucose ưu trương cho người bệnh bị mất nước vì tình trạng mất nước sẽ nặng thêm do bị lợi niệu thẩm thấu.
Điều trị glucose cho người bệnh suy dinh dưỡng, hoặc người bệnh rối loạn chuyển hóa do stress sau mổ phải bắt đầu từ từ do khả năng sử dụng glucose của người bệnh tăng lên dần dần. Nhiều người bệnh được nuôi dưỡng theo đường tiêm truyền bị tăng đường huyết. Cần phải xác định nguyên nhân và điều chỉnh bằng các biện pháp không phải insulin trước khi sử dụng insulin nếu có thể được. Cần truyền tốc độ đều đều không ngừng đột ngột, tránh thay đổi đường huyết. Tuy insulin làm tăng tác dụng nuôi dưỡng theo đường tiêm truyền, nhưng vẫn cần phải thận trọng khi dùng để tránh nguy cơ hạ đường huyết và do insulin làm tăng lắng đọng acid béo ở các mô dự trữ mỡ khiến cho chúng ít vào được các đường chuyển hóa quan trọng. Nếu cần thiết, có thể tiêm insulin vào dưới da hoặc vào tĩnh mạch, hoặc cho thêm vào dịch truyền nuôi dưỡng. Một khi người bệnh đã ổn định với một liều insulin nhất định thì tiêm insulin riêng rẽ sẽ có lợi hơn về kinh tế; tránh lãng phí phải bỏ dịch truyền khi cần thay đổi liều insulin. Dùng insulin người là tốt nhất vì ít ảnh hưởng đến miễn dịch nhất. Liều dùng insulin là theo kinh nghiệm và điều kiện thực tế (ví dụ có thể dùng một nửa hoặc một phần ba liều cần dùng ngày hôm trước cùng với dịch truyền nuôi dưỡng hàng ngày). Cần tôn trọng các bước chuẩn bị và pha dịch truyền để giảm thiểu biến động hoạt tính của insulin do hiện tượng hấp phụ gây ra.
Chỉ định khi dùng Glucose
Thiếu hụt carbohydrat và dịch.
Mất nước do ỉa chảy cấp.
Hạ đường huyết do suy dinh dưỡng, do ngộ độc rượu, do tăng chuyển hóa khi bị stress hay chấn thương.
Làm test dung nạp glucose (uống).
Cách dùng Glucose
Liều dùng thay đổi tùy theo nhu cầu của từng người bệnh.
Phải theo dõi chặt chẽ đường huyết của người bệnh. Liều glucose tối đa khuyên dùng là 500 – 800mg cho 1kg thể trọng trong 1 giờ. Dung dịch glucose 5% là đẳng trương với máu và được dùng để bù mất nước; có thể truyền vào tĩnh mạch ngoại vi. Dung dịch glucose có nồng độ cao hơn 5% là ưu trương với máu và được dùng để cung cấp năng lượng (dung dịch 50% dùng để điều trị những trường hợp hạ đường huyết nặng). Phải truyền các dung dịch ưu trương qua tĩnh mạch trung tâm. Trong trường hợp cấp cứu hạ đường huyết có khi phải truyền vào tĩnh mạch ngoại vi nhưng cần phải truyền chậm (tốc độ truyền dung dịch glucose 50% trong trường hợp này chỉ nên 3ml/phút). Trong nuôi dưỡng theo đường tĩnh mạch, có thể truyền dung dịch glucose đồng thời với các dung dịch có acid amin hoặc nhũ tương mỡ (truyền riêng rẽ hoặc cùng nhau bằng hỗn hợp “3 trong 1” chứa trong cùng một chai). Để làm giảm áp lực não – tủy và phù não do ngộ độc rượu, dùng dung dịch ưu trương 25 đến 50%. Dùng insulin kèm thêm là tùy trường hợp; nếu dùng insulin thì phải theo dõi thường xuyên đường huyết của người bệnh và điều chỉnh liều insulin.
Thận trọng khi dùng Glucose
Phải theo dõi đều đặn đường huyết, cân bằng nước và các chất điện giải. Cần bổ sung các chất điện giải nếu cần.
Không truyền dung dịch glucose cùng với máu qua một bộ dây truyền vì có thể gây tan huyết và tắc nghẽn.
Truyền glucose vào tĩnh mạch có thể dẫn đến rối loạn dịch và điện giải như hạ kali huyết, hạ magnesi huyết, hạ phospho huyết.
Truyền lâu hoặc truyền nhanh một lượng lớn dung dịch glucose đẳng trương có thể gây phù hoặc ngộ độc nước.
Truyền kéo dài hoặc nhanh một lượng lớn dung dịch glucose ưu trương có thể gây mất nước tế bào do tăng đường huyết.
Thời kỳ mang thai:
Dùng được cho người mang thai.
Thời kỳ cho con bú:
An toàn đối với người cho con bú.
Chống chỉ định với Glucose
Người bệnh không dung nạp được glucose.
Mất nước nhược trương nếu chưa bù đủ các chất điện giải.
Ứ nước.
Kali huyết hạ.
Hôn mê tăng thẩm thấu.
Nhiễm toan.
Người bệnh vô niệu, người bệnh bị chảy máu trong sọ hoặc trong tủy sống (không được dùng dung dịch glucose ưu trương cho các trường hợp này).
Mê sảng rươu kèm mất nước, ngộ độc rượu cấp.
Không được dùng dung dịch glucose cho người bệnh sau cơn tai biến mạch não vì đường huyết cao ở vùng thiếu máu cục bộ chuyển hóa thành acid lactic làm chết tế bào não.
Tác dụng phụ của Glucose
Thường gặp: đau tại chỗ tiêm.
Kích ứng tĩnh mạch, viêm tắc tĩnh mạch.
Ít gặp: rối loạn nước và điện giải (hạ kali huyết, hạ magnesi huyết, hạ phospho huyết).
Hiếm gặp: phù hoặc ngộ độc nước (do truyền kéo dài hoặc truyền nhanh một lượng lớn dung dịch đẳng trương).
Mất nước do hậu quả của đường huyết cao (khi truyền kéo dài hoặc quá nhanh các dung dịch ưu trương).
Bảo quản Glucose
Không bảo quản glucose ở nhiệt độ trên 25 độ C.