Pyronaridin

Nhóm thuốc
Thuốc trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn, kháng virus,kháng nấm
Thành phần
Pyronaridin tetraphosphat
Dạng bào chế
Viên nén;Viên thuốc đạn; Bột pha hỗn dịch uống; Bột pha tiêm
Dược lực của Pyronaridin
Pyronaridin tác động mạnh trên in vitro đối với các chủng P. falciparum và P. vivax và cả các chủng phân lập từ lâm sàng, bao gồm các chủng kháng thuốc điều trị sốt rét khác. Đối với các hoạt động tại hồng cầu của P. falciparum, thuốc tác động mạnh nhất ở giai đoạn thể nhẫn (ED50; 8.3 nM), tiếp theo là thể phân liệt (ED50; 11.6 nM), sau đó là thể tư dưỡng (ED50; 14.0 nM). Thuốc pyronaridin vẫn duy trì hoạt tính cao đối với các chủng kháng chloroquin. Hiệu quả của pyronaridin trong in vivo đã được báo cáo ở các loài chuột nhắt và linh trưởng nhiễm sốt rét;
Dược động học của Pyronaridin
Hấp thu:
Sau khi dùng thuốc, nồng độ đỉnh trong huyết tương thường đạt được sau 2 đến 8 giờ đối với pyronaridin;
Phân bố
Pyronaridin và chất chuyển hoá phân bố rộng rãi khắp các mô, đạt nồng độ cao nhất ở gan, lách, tuyến thượng thận, thận và tuyến giáp của chuột cống. Có bằng chứng cho thấy pyronaridin gắn kết vào melanin ở mắt. Ở chó, khoảng 6% liều pyronaridin lưu lại trong gan 24 tháng sau khi dùng thuốc. Khả năng ngoại suy đối với người chưa được làm rõ nhưng sự đào thải rất chậm của pyronaridin ra khỏi cơ thể ám chỉ một thời gian dài để xem xét rằng khả năng gây độc tính gan của việc dùng thêm pyronaridin sẽ không tích luỹ với bất kỳ ai đã dùng thuốc trước đó;
Pyronaridin gắn kết mạnh với tế bào máu, tỉ lệ nồng độ trong máu toàn phần /huyết tương xấp xỉ 1,5:1. Pyronaridin gắn kết mạnh với protein huyết thanh của người (92-95%) trong thử nghiệm in vitro;
Chuyển hoá
Pyronaridin được chuyển hóa thành nhiều chất chuyển hoá tiềm năng, mặc dù vẫn chưa rõ con đường chuyển hoá chính của thuốc. Ở chuột và chó, pyronaridin được bài tiết chủ yếu dưới dạng không đổi. Các thử nghiệm in vitro cho thấy CYP1A2, CYP2D6 và CYP3A4 có thể có liên quan đến sự chuyển hoá của pyronaridin. Trong thử nghiệm in vitro, pyronaridin ức chế hoạt tính của CYP2D6 ở nồng độ trị liệu;
Thải trừ
Pyronaridin được thài trừ chậm ra khỏi máu, nửa đời thải trừ là 14-18 ngày đối với thuốc gốc và trung bình 33,5 ngày đối với toàn bộ các chất chuyển hóa của thuốc. Sự thải trừ qua thận của pyronaridin dạng không đổi ở người khoẻ mạnh chưa đến 2%;
Dữ liệu từ nghiên cứu cân bằng khối lượng với pyronaridin ở người tình nguyện khoẻ mạnh cho thấy thải trừ qua phân là con đường thải trừ chính của các chất chuyển hóa. Trong nghiên cứu này, các chất chuyển hóa pyronaridin được thải trừ qua cả phân (47,8%) và nước tiểu (23,7%) sau khi uống pyronaridin ở người khoẻ mạnh. Sự thải trừ diễn ra rất chậm, vẫn tìm thấy trung bình khoảng 71,5% liều dùng (dao động từ 60,3-82,2%) sau 86 ngày dùng thuốc;
Tác dụng của Pyronaridin
Pyronaridin ức chế sự hình thành b-haematin, do đó ngăn chặn ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) trung hoà thành phần haem, một chất gây độc cho ký sinh trùng. Thêm vào đó, qua cách tạo thành phức hợp thuốc-haematin nên pyronaridin sẽ ức chế sự thoái biến phụ thuộc glutathion của haematin và làm tăng ly giải hồng cầu do haematin. Cả 2 tác động này đều làm cho ký sinh trùng chết;
Chỉ định khi dùng Pyronaridin
 Đơn trị hoặc kết hợp với các thuốc khác điều trị bệnh sốt rét.
Cách dùng Pyronaridin

Thận trọng khi dùng Pyronaridin
Không nên dùng cho phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu trừ trường hợp sốt rét nặng & sốt rét ác tính.
Bệnh lý thần kinh ngoại biên
Không sử dụng hình thức tiêm ở trẻ em dưới 5 tuổi
Kiểm tra mắt cần trong khi điều trị kéo dài
thiếu G6PD
Chống chỉ định với Pyronaridin
Quá mẫn với thành phần thuốc.
Mang thai
Tổn thương gan
Tác dụng phụ của Pyronaridin
Đau đầu, sự bất thường bạch cầu, đau bụng, giảm số lượng hồng cầu, tăng tiểu cầu, ói mửa, hạ đường huyết.
Bảo quản Pyronaridin
Nơi khô, nhiệt độ dưới 30 độ C,tránh ánh sáng.