Các bệnh đường hô hấp cấp tính và mãn tính do bất thường trong tiết dịch phế quản, đặc biệt trong cơn kịch phát của bệnh viêm phế quản mãn tính, viêm phế quản do hen suyễn, hen phế quản; Điều trị sau phẫu thuật và các ca săn sóc đặc biệt để tránh biến chứng ở phổi; viêm mũi, viêm xoang và viêm tai giữa chảy dịch.
Cách dùng Ramol syrup
Ngoại trừ trường hợp thầy thuốc kê đơn, liều dùng thông thường là: Người lớn: Khi bắt đầu điều trị: 1gói x 3lần/ngày, pha với nước. Trẻ em 5-10 tuổi: 1/2 gói x 2 -3 lần/ngày, pha với nước.Trẻ em dưới 5 tuổi:1.2 – 1.6mg/kg/ngày. Nên uống thuốc sau bữa ăn.
Chống chỉ định với Ramol syrup
Chống chỉ định: Bệnh nhân tăng cảm với Ambroxol hoặc bất kỳ thành phần nào của syro, bromhexin.
Tương tác thuốc của Ramol syrup
Dùng Ambroxol cùng lúc với các kháng sinh (amoxicillin, cefuroxim, erythromycin, doxycycline) làm tăng khả năng thấm của kháng sinh và mô phổi.
Tác dụng phụ của Ramol syrup
Hiếm khi có báo cáo không dung nạp thuốc sau khi sử dụng ambroxol. Các phản ứng được quan sát thấy: phản ứng trên da và/ hoặc niêm mạc, phù mặt, khó thở, tăng nhiệt độ cơ thể cùng với những cơn lạnh. Cũng hiếm có báo cáo về phản ứng phụ trên đường tiêu hóa. Có vài báo cáo về các triệu chứng sốc phản vệ cấp tính (triệu chứng tuần hoàn nghiêm trọng).
Đề phòng khi dùng Ramol syrup
Thận trọng: Không nên dùng syro khô Anbroxol kéo dài mà không tham khảo ý kiến của thầy thuốc. Trong trường hợp suy thận nặng, nên nhớ là các chất chuyển hóa của Ambroxol tạo ra ở gan sẽ bị tích tụ. Nên thận trọng trong trường hợp bệnh nhân có tiền sử loét dạ dày tá tràng. Cảnh giác: Dùng các thuốc có tác dụng thay đổi sự tiết phế quản cùng lúc với các thuốc trị ho và/hoặc các chất làm khô (như antropine) có thể sẽ gây kích ứng. Sử dụng trong thai kỳ và cho con bú: Ở liều cao, không thấy gây độc cho phôi thaỉ ở các thử nghiệm trên động vật. Tuy nhiên chỉ dùng Ambroxol trong thai kỳ, đặc biệt là trong ba tháng đầu, và khi cho con bú trong trường hợp thực sự cần thiết, vì không có số liệu trên người.Các nghiên cứu tiền lâm sàng cũng như kinh nghiệm lâm sàng sau tuần thứ 28 cho thấy không có biểu hiện xấu trong thai. Tác dụng trên khả năng lái xe hoặc vận hành máy móc: không có số liệu.