Cơ chế của tác động hạ huyết áp chưa được xác định. Các cơ chế sau có thể được xem là có liên quan: - khả năng cạnh tranh đối kháng với chứng nhịp tim nhanh do catecholamine tại vị trí thụ thể bêta trên tim, do đó làm giảm lưu lượng tim, - ức chế sự giải phóng renin do thận, - ức chế trung tâm vận mạch. Cơ chế của tác động chống cơn đau thắt ngực cũng không được chắc chắn. Tác nhân quan trọng có thể là việc làm giảm nhu cầu oxygen của cơ tim bằng cách ức chế gia tăng nhịp tim, huyết áp tâm thu, tốc độ và mức độ co cơ tim do catecholamine.
Chỉ định khi dùng Sefmeloc 100
Cao huyết áp: Atenolol được chỉ định dùng cho bệnh nhân cao huyết áp nhẹ hoặc trung bình. Thuốc thường được dùng kết hợp với các thuốc khác, đặc biệt là một thuốc lợi tiểu loại thiazide. Tuy nhiên thuốc có thể được dùng thử riêng rẽ như một tác nhân khởi đầu ở những bệnh nhân dưới sự xét đoán của bác sĩ nên bắt đầu dùng một thuốc ức chế bêta hơn là thuốc lợi tiểu. Atenolol có thể được dùng kết hợp với thuốc lợi tiểu và/hoặc thuốc giãn mạch để điều trị cao huyết áp nặng. Sự kết hợp atenolol với một thuốc lợi tiểu hay một thuốc giãn mạch ngoại vi đã được chứng minh có sự tương hợp. Thí nghiệm giới hạn với những thuốc hạ huyết áp khác không cho thấy bằng chứng về tương kỵ với atenolol. Không nên dùng atenolol cho trường hợp cấp cứu cao huyết áp. Ðau thắt ngực: Atenolol được chỉ định điều trị lâu dài bệnh nhân đau thắt ngực do thiếu máu cơ tim cục bộ.
Cách dùng Sefmeloc 100
Cao huyết áp: Atenolol thường được sử dụng kết hợp với các thuốc hạ huyết áp khác, đặc biệt là một thuốc lợi tiểu thiazide, nhưng cũng có thể được dùng riêng rẽ (xem Chỉ định). Nên điều chỉnh liều Atenolol theo từng bệnh nhân. Hướng dẫn sau được khuyến cáo: Dùng Atenolol liều khởi đầu 50mg, uống một viên mỗi ngày có hay không có kèm theo thuốc lợi tiểu. Tác dụng hoàn toàn của thuốc thường thấy được trong vòng một hoặc hai tuần. Nếu không đạt được đáp ứng thỏa đáng, nên tăng liều đến 100mg một lần mỗi ngày. Sự tăng liều cao hơn 100mg mỗi ngày hầu như không cho lợi ích nhiều hơn. Nếu cần hạ huyết áp nhiều hơn, nên bổ sung vào phác đồ trị liệu một thuốc hạ huyết áp khác. Ðau thắt ngực: Liều khởi đầu của Atenolol là dùng một viên 50mg mỗi ngày. Tác dụng hoàn toàn của liều này thường được nhận thấy trong vòng một đến hai tuần. Nếu đáp ứng tối ưu chưa đạt được trong vòng một tuần, nên tăng liều thành một viên duy nhất 100mg. Một vài bệnh nhân có thể cần đến liều 200mg mỗi ngày mới đạt được hiệu quả tối ưu. Bệnh nhân suy thận: Do atenolol được đào thải chủ yếu qua thận, nên điều chỉnh liều lượng ở bệnh nhân suy thận nặng. Có sự tích tụ atenolol đáng kể khi độ thanh thải creatinine xuống dưới 35ml/phút/1,73m2 (giá trị bình thường vào khoảng 100-150ml/phút/1,73m2 ). Bệnh nhân lọc máu nên được cho liều 50mg sau mỗi lần lọc máu; nên thực hiện trong bệnh viện vì có thể xảy ra tụt huyết áp đáng kể.
Thận trọng khi dùng Sefmeloc 100
- Do tác động chủ yếu ức chế trên bêta 1, Atenolol có thể được sử dụng thử ở bệnh nhân mắc những chứng bệnh kèm theo co thắt phế quản có yêu cầu điều trị với tác nhân ức chế bêta. Tuy nhiên, cần thiết theo dõi cẩn thận những bệnh nhân này và phải dùng đồng thời một thuốc giãn phế quản. Nếu dự tính điều trị đầu tiên bằng một thuốc giãn phế quản, có thể xem xét sử dụng một thuốc giãn phế quản loại giống giao cảm. Trên những bệnh nhân đã có sử dụng thuốc giãn phế quản trước đó, đôi khi có thể cần phải gia tăng liều. Tình trạng hô hấp của một vài bệnh nhân có thể xấu hơn mặc dù đã thực hiện những thận trọng nêu trên, và, trong những trường hợp như vậy, nên ngưng dùng atenolol. - Có thể khó khăn hơn trong việc điều trị phản ứng dị ứng trên bệnh nhân đang điều trị các thuốc ức chế bêta. Trên những bệnh nhân này, phản ứng có thể nặng hơn do các tác động dược lý của các thuốc ức chế bêta và các thay đổi về dịch trong cơ thể. Khi điều trị phản vệ nên dùng cẩn thận epinephrine do thuốc có thể không biểu hiện những tác động thông thường. Ở một vài trường hợp, có thể cần dùng các liều cao epinephrine để vượt qua sự co thắt phế quản, trong khi trong một số trường hợp khác, các liều cao này có thể dẫn đến kích thích alpha-adrenergic quá độ với hệ quả chứng cao huyết áp, chứng nhịp tim chậm và nghẽn tim phản xạ và ức chế tim và có thể làm nặng thêm chứng co thắt phế quản. Các phương pháp khác có thể dùng để thay thế cho sự sử dụng liều cao epinephrine gồm có các điều trị hỗ trợ như truyền dịch và sử dụng các chất chủ vận bêta, trong đó có salbutamol hay isoproterenol tiêm để chống co thắt phế quản và norepinephrine để tăng huyết áp. - Atenolol nên sử dụng cẩn thận ở bệnh nhân nghi ngờ là có hạ đường huyết đồng thời, hay cho bệnh nhân tiểu đường (đặc biệt là người bệnh tiểu đường không ổn định) đang dùng insulin hay các thuốc hạ đường huyết uống. Các thuốc ức chế bêta có thể che dấu những dấu hiệu và triệu chứng báo trước của cơn hạ đường huyết cấp. - Nghiên cứu trên thú vật: Các nghiên cứu dài ngày được thực hiện trên thú vật đã cho thấy có sự tạo thành không bào ở tế bào biểu mô của tuyến Brunner ở tá tràng của chó đực và cái với tất cả các mức liều atenolol thử nghiệm (bắt đầu với 15mg/kg/ngày hay 7,5 lần liều tối đa khuyến cáo sử dụng cho người) và một sự gia tăng tỷ lệ thoái hóa tâm nhĩ ở chuột đực với liều 300mg/kg/ngày nhưng không ảnh hưởng ở liều 150mg/kg/ngày (tương ứng với liều gấp 150 và 70 lần liều tối đa khuyến cáo sử dụng cho người). - Nên thực hiện đều đặn các xét nghiệm thích hợp kiểm tra chức năng thận, gan và chức năng tạo máu trong suốt quá trình điều trị kéo dài. - Nên sử dụng atenolol cẩn thận trên bệnh nhân suy thận (xem Liều lượng và Cách dùng). Khi chức năng thận bị suy giảm, sự thanh thải atenolol có liên quan chặt chẽ với tốc độ thanh thải cầu thận; tuy nhiên, không có sự tích tụ đáng kể cho đến khi thanh thải creatinine dưới 35ml/phút/1,73m2 . - Việc kiểm soát bệnh nhân được điều trị với các thuốc ức chế bêta và chịu phẫu thuật cấp cứu và phẫu thuật chọn lọc vẫn còn đang tranh luận. Mặc dù sự phong tỏa thụ thể bêta-adrenergic làm giảm khả năng đáp ứng với những kích thích phản xạ qua trung gian bêta-adrenergic, sự ngưng điều trị đột ngột với atenolol có thể kéo theo những các biến chứng trầm trọng (xem Chú ý đề phòng). Một vài bệnh nhân dùng các thuốc ức chế bêta-adrenergic đã bị tụt huyết áp nặng kéo dài trong khi gây mê. Cũng đã có những trường hợp gặp khó khăn khi tái tạo và duy trì nhịp tim trở lại. Vì những lý do trên, ở bệnh nhân đau thắt ngực chịu phẫu thuật chọn lọc, nên ngưng atenolol một cách cẩn thận theo những khuyến cáo trong phần Ngưng thuốc đột ngột (xem Chú ý đề phòng). Theo những bằng chứng có được, tất cả những tác dụng lâm sàng và sinh lý của sự ức chế bêta không kéo dài quá 72 giờ sau khi ngưng dùng thuốc. Trong phẫu thuật cấp cứu, do atenolol là một tác nhân ức chế cạnh tranh của chất chủ vận trên thụ thể bêta-adrenergic, nó có thể gây tác động ngược lại, nếu cần thiết, bằng những liều lượng đầy đủ của những chất chủ vận như isoproterenol hay levarterenol. - Sử dụng cho trẻ em: Không có cuộc thí nghiệm điều trị atenolol cho trẻ em. CHÚ Ý ÐỀ PHÒNG Suy tim: Nên đặc biệt cẩn thận khi dùng Atenolol cho bệnh nhân có tiền sử suy tim. Kích thích giao cảm là một thành phần thiết yếu hỗ trợ cho chức năng tuần hoàn trong suy tim sung huyết, và sự ức chế với chất ức chế bêta luôn luôn đi kèm theo khả năng xảy ra nguy cơ làm giảm khả năng co bóp cơ tim và làm suy tim. Atenolol tác động một cách chọn lọc không làm loại bỏ hoạt tính inotrope của digitalis trên cơ tim. Tuy nhiên, tác động inotrope dương tính của digitalis có thể bị giảm do tác động inotrope âm tính của atenolol khi hai thuốc được sử dụng đồng thời. Tác động của các chất ức chế bêta với digitalis là đồng vận trong việc làm giảm sự dẫn truyền nhĩ thất. Trên bệnh nhân không có tiền sử suy tim, suy yếu cơ tim liên tục qua một thời gian, trong một vài trường hợp, sẽ dẫn đến suy tim. Do đó, ngay khi có dấu hiệu đầu tiên dẫn đến suy tim, bệnh nhân nên được cho dùng digitalis đầy đủ và/hoặc một thuốc lợi tiểu và theo dõi cẩn thận sự đáp ứng. Nếu sự suy tim vẫn tiếp tục mặc dù đã cho đầy đủ digitalis và thuốc lợi tiểu, nên ngưng lập tức trị liệu với atenolol. Ngưng đột ngột việc điều trị với Atenolol: bệnh nhân đau thắt ngực nên được cảnh cáo không được ngưng đột ngột atenolol. Ðã có những báo cáo về sự tăng vọt chứng đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim hay loạn nhịp thất xảy ra trên bệnh nhân bị đau thắt ngực sau khi ngưng đột ngột các thuốc chẹn bêta. Hai biến chứng sau cùng có thể xảy ra có hay không có cơn đau thắt ngực báo trước. Do đó, khi dự tính ngưng dùng atenolol ở bệnh nhân đau thắt ngực, nên giảm liều dần dần trong vòng hai tuần lễ, theo dõi bệnh nhân thật kỹ và nên giới hạn các hoạt động thể lực đến mức thấp nhất. Nên giử nguyên khoảng thời gian dùng thuốc. Trong những trường hợp khẩn cấp hơn, nên ngưng atenolol từng bậc trong một khoảng thời gian ngắn hơn và theo dõi kỹ càng hơn. Nếu đau thắt ngực trở nên nặng hơn đáng kể hay xuất hiện thiểu năng mạch vành cấp, nên dùng atenolol trở lại ngay lập tức, ít nhất cũng tạm thời trong thời gian này. Hội chứng mắt-niêm mạc-da: Các chứng nổi ban da và khô kết mạc đã được báo cáo xảy ra với các thuốc ức chế bêta trong đó có atenolol. Một hội chứng trầm trọng (Hội chứng mắt-niêm mạc-da) có các dấu hiệu bao gồm viêm kết mạc khô và nổi ban dạng vảy nến, viêm tai và viêm thanh mạc gây cứng đã xảy ra khi dùng lâu dài một thuốc ức chế bêta-adrenergic (practolol). Hội chứng này không được nhận thấy với atenolol hay những thuốc tương tự. Tuy nhiên, bác sĩ nên cảnh giác với khả năng xảy ra những phản ứng như trên và nên ngưng dùng thuốc nếu chúng có xảy ra. Chậm nhịp xoang: Chậm nhịp xoang nặng có thể xảy ra khi sử dụng atenolol do tác động không đối lập của dây thần kinh phế vị vẫn còn duy trì sau khi phong tỏa thụ thể bêta 1-adregenic; trong những trường hợp như thế, nên giảm liều. Trên bệnh nhân nhiễm độc giáp: Trên bệnh nhân nhiễm độc giáp, chưa xác định được các ảnh hưởng có hại có thể xảy ra do sử dụng lâu dài atenolol. Sự phong tỏa bêta có thể che giấu các dấu hiệu lâm sàng của nhiễm độc giáp kéo dài hay các biến chứng của nó và cho một cảm tưởng cải thiện bệnh giả tạo. Do đó, sự ngưng atenolol đột ngột có thể kéo theo một sự tăng vọt các triệu chứng cường giáp, bao gồm những cơn bão giáp. LÚC CÓ THAI VÀ LÚC NUÔI CON BÚ Lúc có thai: Atenolol đã được chứng minh làm gia tăng có phụ thuộc vào liều lượng sẩy thai ở chuột cống với liều lượng bằng hay lớn hơn 50mg/kg hoặc 25 lần liều khuyến cáo dùng cho người. Không có nghiên cứu đầy đủ và kiểm soát kỹ được thực hiện trên phụ nữ có thai. Các nghiên cứu trên người đã chứng tỏ rằng atenolol thật sự có đi qua nhau thai với nồng độ thuốc trong huyết thanh của thai nhi tương đương với nồng độ của người mẹ. Sự tích tụ hầu như không xảy ra trên thai nhi. Chỉ có giới hạn một vài thông tin về sử dụng atenolol trên phụ nữ có thai ở một vài người được cho uống thuốc trong giai đoạn ba tháng cuối thai kỳ. Chỉ nên dùng atenolol lúc có thai nếu lợi ích mong đợi cao hơn nguy cơ có thể xảy ra cho thai nhi. Lúc nuôi con bú: Ở người, atenolol được bài tiết qua sữa mẹ. Nếu xét thấy cần thiết phải sử dụng atenolol, người mẹ nên ngưng cho con bú.
Chống chỉ định với Sefmeloc 100
Atenolol không nên dùng trong những trường hợp: - chậm nhịp xoang. - bloc nhĩ thất độ hai và ba. - suy thất phải thứ phát do tăng áp phổi. - suy tim sung huyết. - sốc tim. - gây vô cảm với những tác nhân làm suy cơ tim như ether. - quá mẫn với atenolol.
Tương tác thuốc của Sefmeloc 100
Nếu quyết định ngưng điều trị ở bệnh nhân dùng các tác nhân ức chế bêta và clonidine đồng thời, nên ngưng thuốc ức chế bêta vài ngày trước khi ngưng từ từ clonidine. Ðã có đề nghị rằng việc ngưng dùng clonidine trong khi đang dùng thuốc ức chế bêta có thể làm nặng hơn hội chứng xảy ra do ngưng clonidine (xem thông tin kê toa của clonidine). Bệnh nhân dùng thuốc làm cạn kiệt catecholamine, như reserpin hay guanethidine, nên được theo dõi cẩn thận vì tác động ức chế bêta-adrenergic thêm vào có thể tạo ra một sự giảm hoạt động giao cảm quá độ. Không nên dùng atenolol kết hợp với những thuốc ức chế bêta khác.
Tác dụng phụ của Sefmeloc 100
Tác dụng ngoại ý trầm trọng nhất gặp phải là suy tim sung huyết, bloc nhĩ thất và co thắt phế quản. Tác động ngoại ý thường được báo cáo nhiều nhất trong những thử nghiệm lâm sàng với atenolol là chậm tim (3%), chóng mặt (3%), choáng váng (2%), mệt mỏi (3%), tiêu chảy (2%) và buồn nôn (3%). Các tác dụng ngoại ý phân loại theo hệ cơ quan như sau: Tim mạch: Suy tim xung huyết (xem Chú ý đề phòng), chậm nhịp tim nặng, bloc nhĩ thất, đánh trống ngực, kéo dài đoạn P-R, đau ngực, choáng váng và hạ huyết áp thế đứng, hiện tượng Raynaud, khập khểnh, đau chân và lạnh tay chân, phù nề. Hô hấp: Khó thở, thở khò khè, ho, co thắt phế quản. Hệ thần kinh trung ương: Nhức đầu, chóng mặt, ngất, mất điều hòa, mệt mỏi, ngủ lịm, lo lắng, trầm cảm, buồn ngủ, giấc mơ sâu đậm, mất ngủ, dị cảm, ù tai. Hệ tiêu hóa: Ðau bụng, khó tiêu, tiêu chảy, buồn nôn, chán ăn. Linh tinh: Nổi ban da, ngứa và/hoặc khô mắt, giảm dung nạp vận động, chảy máu cam, cơn bừng hỏa, bất lực, giảm tình dục, đổ mồ hôi, đau nhức toàn thân. Các tác dụng ngoại ý sau có xảy ra với các thuốc ức chế bêta nhưng không có báo cáo xuất hiện với atenolol: Tim mạch: phù phổi, to tim, cơn bừng hỏa, ngất, và ngưng nhịp xoang. Hệ thần kinh trung ương: tính tình hung hăng, lú lẫn, bồn chồn và ảo giác. Hô hấp: co thắt thanh quản và hen suyễn. Da liễu: viêm da tróc vảy. Nhãn khoa: nhìn mờ, cảm giác nóng bỏng và rối loạn thị lực. Huyết học: ban xuất huyết giảm tiểu cầu.
Quá liều khi dùng Sefmeloc 100
Dấu hiệu thường gặp nhất trong quá liều một thuốc ức chế bêta-adrenergic là tim chậm, suy tim sung huyết, tụt huyết áp, co thắt phế quản và hạ đường huyết. Nếu bị quá liều, trong tất cả mọi trường hợp, nên ngưng atenolol và theo dõi bệnh nhân thật cẩn thận. Thêm vào đó, thực hiện các biện pháp sau nếu cần thiết: - Tim chậm: Atropine hay một thuốc kháng cholinergic khác - Bloc tim (độ hai hoặc ba): Isoproterenol hay chất tạo nhịp tim qua tĩnh mạch. - Suy tim sung huyết: Các trị liệu hiện hành. - Hạ huyết áp: (tùy thuộc vào tác nhân đi kèm) Epinephrine tốt hơn isoproterenol hay norepinephrine có thể được dùng kèm theo atropine và digitalis (xem Thận trọng lúc dùng về sự sử dụng epinephrine trên bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế bêta). - Co thắt phế quản: aminophylline hay isoproterenol. - Hạ đường huyết: truyền tĩnh mạch glucose. Nên nhớ rằng atenolol là chất đối kháng tương tranh với isoproterenol và do đó, một lượng lớn isoproterenol có thể được mong đợi làm đảo ngược lại nhiều tác dụng của các liều quá độ atenolol. Tuy nhiên không nên xem nhẹ các biến chứng của việc sử dụng quá liều isoproterenol.
Bảo quản Sefmeloc 100
Nên bảo quản tránh ẩm và ánh sáng. Tồn trữ thuốc ở nhiệt độ 15-30 độ C.
Dùng Sefmeloc 100 theo chỉ định của Bác sĩ
Hướng dẫn dùng thuốc có thành phần Atenolol
Nhóm thuốc
Thuốc tim mạch
Thành phần
Atenolol
Dược lực của Atenolol
Atenolol là một thuốc ức chế thụ thể bêta-adrenergic với tác động chủ yếu lên thụ thể bêta1. Thuốc không có tác động ổn định màng hay giống giao cảm nội tại (chất chủ vận một phần).
Dược động học của Atenolol
Khoảng 50% liều atenolol uống được hấp thu theo đường tiêu hóa, phần còn lại được đào thải qua phân dưới dạng không đổi. 6-16% atenolol gắn với protein huyết tương. Nồng độ tối đa trong huyết tương đạt được trong vòng 2-4 giờ. Nồng độ đỉnh trung bình trong huyết tương của atenolol lần lượt vào khoảng 300 đến 700ng/ml sau khi uống 50 và 100 mg. Thời gian bán hủy khoảng 6-7 giờ. Atenolol được phân bố rộng rãi vào các mô ngoài mạch nhưng chỉ có một lượng nhỏ được tìm thấy trong hệ thần kinh trung ương. Khoảng 10% atenolol được chuyển hóa ở người. Khoảng 3% hoạt chất được tìm thấy trong nước tiểu dưới dạng chất chuyển hóa hydroxyl hóa được chứng minh trong nghiên cứu trên thú vật là có 10% tác động dược lý của atenolol. Khoảng 47 và 53% liều uống tương ứng được đào thải trong nước tiểu và phân. Sự hồi phục toàn bộ trong vòng 72 giờ. Các nghiên cứu sinh khả dụng đã được thực hiện trên những người tình nguyện. Ðây là một trong những tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá chất lượng thuốc. Ðối với các thuốc hóa dược (generic drug), sinh khả dụng là một điều kiện bắt buộc của Bộ Y Tế và chính phủ Canada trong quy trình sản xuất dược phẩm, được quy định hết sức chặt chẽ trước khi các dược phẩm này được lưu hành khắp nước Canada và toàn cầu. Các dược phẩm của Apotex sản xuất tại Canada, đều đạt tiêu chuẩn GMP của Tổ Chức Y Tế Thế Giới. Các thông số sinh khả dụng của các thuốc hóa dược do Apotex sản xuất được so sánh với các thuốc có nhãn hiệu được ưa chuộng cùng loại của các hãng dược phẩm hàng đầu trên thế giới : Tốc độ và mức độ hấp thu sau khi uống liều duy nhất 100 mg của Tenormin 100 mg hay Atenolol 100mg được đo lường và so sánh
Tác dụng của Atenolol
Cơ chế của tác động hạ huyết áp chưa được xác định. Các cơ chế sau có thể được xem là có liên quan: - khả năng cạnh tranh đối kháng với chứng nhịp tim nhanh do catecholamine tại vị trí thụ thể bêta trên tim, do đó làm giảm lưu lượng tim, - ức chế sự giải phóng renin do thận, - ức chế trung tâm vận mạch. Cơ chế của tác động chống cơn đau thắt ngực cũng không được chắc chắn. Tác nhân quan trọng có thể là việc làm giảm nhu cầu oxygen của cơ tim bằng cách ức chế gia tăng nhịp tim, huyết áp tâm thu, tốc độ và mức độ co cơ tim do catecholamine.
Chỉ định khi dùng Atenolol
Cao huyết áp: Atenolol được chỉ định dùng cho bệnh nhân cao huyết áp nhẹ hoặc trung bình. Thuốc thường được dùng kết hợp với các thuốc khác, đặc biệt là một thuốc lợi tiểu loại thiazide. Tuy nhiên thuốc có thể được dùng thử riêng rẽ như một tác nhân khởi đầu ở những bệnh nhân dưới sự xét đoán của bác sĩ nên bắt đầu dùng một thuốc ức chế bêta hơn là thuốc lợi tiểu. Atenolol có thể được dùng kết hợp với thuốc lợi tiểu và/hoặc thuốc giãn mạch để điều trị cao huyết áp nặng. Sự kết hợp atenolol với một thuốc lợi tiểu hay một thuốc giãn mạch ngoại vi đã được chứng minh có sự tương hợp. Thí nghiệm giới hạn với những thuốc hạ huyết áp khác không cho thấy bằng chứng về tương kỵ với atenolol. Không nên dùng atenolol cho trường hợp cấp cứu cao huyết áp. Ðau thắt ngực: Atenolol được chỉ định điều trị lâu dài bệnh nhân đau thắt ngực do thiếu máu cơ tim cục bộ.
Cách dùng Atenolol
Cao huyết áp: Atenolol thường được sử dụng kết hợp với các thuốc hạ huyết áp khác, đặc biệt là một thuốc lợi tiểu thiazide, nhưng cũng có thể được dùng riêng rẽ (xem Chỉ định). Nên điều chỉnh liều Atenolol theo từng bệnh nhân. Hướng dẫn sau được khuyến cáo: Dùng Atenolol liều khởi đầu 50mg, uống một viên mỗi ngày có hay không có kèm theo thuốc lợi tiểu. Tác dụng hoàn toàn của thuốc thường thấy được trong vòng một hoặc hai tuần. Nếu không đạt được đáp ứng thỏa đáng, nên tăng liều đến 100mg một lần mỗi ngày. Sự tăng liều cao hơn 100mg mỗi ngày hầu như không cho lợi ích nhiều hơn. Nếu cần hạ huyết áp nhiều hơn, nên bổ sung vào phác đồ trị liệu một thuốc hạ huyết áp khác. Ðau thắt ngực: Liều khởi đầu của Atenolol là dùng một viên 50mg mỗi ngày. Tác dụng hoàn toàn của liều này thường được nhận thấy trong vòng một đến hai tuần. Nếu đáp ứng tối ưu chưa đạt được trong vòng một tuần, nên tăng liều thành một viên duy nhất 100mg. Một vài bệnh nhân có thể cần đến liều 200mg mỗi ngày mới đạt được hiệu quả tối ưu. Bệnh nhân suy thận: Do atenolol được đào thải chủ yếu qua thận, nên điều chỉnh liều lượng ở bệnh nhân suy thận nặng. Có sự tích tụ atenolol đáng kể khi độ thanh thải creatinine xuống dưới 35ml/phút/1,73m2 (giá trị bình thường vào khoảng 100-150ml/phút/1,73m2 ). Bệnh nhân lọc máu nên được cho liều 50mg sau mỗi lần lọc máu; nên thực hiện trong bệnh viện vì có thể xảy ra tụt huyết áp đáng kể.
Thận trọng khi dùng Atenolol
- Do tác động chủ yếu ức chế trên bêta 1, Atenolol có thể được sử dụng thử ở bệnh nhân mắc những chứng bệnh kèm theo co thắt phế quản có yêu cầu điều trị với tác nhân ức chế bêta. Tuy nhiên, cần thiết theo dõi cẩn thận những bệnh nhân này và phải dùng đồng thời một thuốc giãn phế quản. Nếu dự tính điều trị đầu tiên bằng một thuốc giãn phế quản, có thể xem xét sử dụng một thuốc giãn phế quản loại giống giao cảm. Trên những bệnh nhân đã có sử dụng thuốc giãn phế quản trước đó, đôi khi có thể cần phải gia tăng liều. Tình trạng hô hấp của một vài bệnh nhân có thể xấu hơn mặc dù đã thực hiện những thận trọng nêu trên, và, trong những trường hợp như vậy, nên ngưng dùng atenolol. - Có thể khó khăn hơn trong việc điều trị phản ứng dị ứng trên bệnh nhân đang điều trị các thuốc ức chế bêta. Trên những bệnh nhân này, phản ứng có thể nặng hơn do các tác động dược lý của các thuốc ức chế bêta và các thay đổi về dịch trong cơ thể. Khi điều trị phản vệ nên dùng cẩn thận epinephrine do thuốc có thể không biểu hiện những tác động thông thường. Ở một vài trường hợp, có thể cần dùng các liều cao epinephrine để vượt qua sự co thắt phế quản, trong khi trong một số trường hợp khác, các liều cao này có thể dẫn đến kích thích alpha-adrenergic quá độ với hệ quả chứng cao huyết áp, chứng nhịp tim chậm và nghẽn tim phản xạ và ức chế tim và có thể làm nặng thêm chứng co thắt phế quản. Các phương pháp khác có thể dùng để thay thế cho sự sử dụng liều cao epinephrine gồm có các điều trị hỗ trợ như truyền dịch và sử dụng các chất chủ vận bêta, trong đó có salbutamol hay isoproterenol tiêm để chống co thắt phế quản và norepinephrine để tăng huyết áp. - Atenolol nên sử dụng cẩn thận ở bệnh nhân nghi ngờ là có hạ đường huyết đồng thời, hay cho bệnh nhân tiểu đường (đặc biệt là người bệnh tiểu đường không ổn định) đang dùng insulin hay các thuốc hạ đường huyết uống. Các thuốc ức chế bêta có thể che dấu những dấu hiệu và triệu chứng báo trước của cơn hạ đường huyết cấp. - Nghiên cứu trên thú vật: Các nghiên cứu dài ngày được thực hiện trên thú vật đã cho thấy có sự tạo thành không bào ở tế bào biểu mô của tuyến Brunner ở tá tràng của chó đực và cái với tất cả các mức liều atenolol thử nghiệm (bắt đầu với 15mg/kg/ngày hay 7,5 lần liều tối đa khuyến cáo sử dụng cho người) và một sự gia tăng tỷ lệ thoái hóa tâm nhĩ ở chuột đực với liều 300mg/kg/ngày nhưng không ảnh hưởng ở liều 150mg/kg/ngày (tương ứng với liều gấp 150 và 70 lần liều tối đa khuyến cáo sử dụng cho người). - Nên thực hiện đều đặn các xét nghiệm thích hợp kiểm tra chức năng thận, gan và chức năng tạo máu trong suốt quá trình điều trị kéo dài. - Nên sử dụng atenolol cẩn thận trên bệnh nhân suy thận (xem Liều lượng và Cách dùng). Khi chức năng thận bị suy giảm, sự thanh thải atenolol có liên quan chặt chẽ với tốc độ thanh thải cầu thận; tuy nhiên, không có sự tích tụ đáng kể cho đến khi thanh thải creatinine dưới 35ml/phút/1,73m2 . - Việc kiểm soát bệnh nhân được điều trị với các thuốc ức chế bêta và chịu phẫu thuật cấp cứu và phẫu thuật chọn lọc vẫn còn đang tranh luận. Mặc dù sự phong tỏa thụ thể bêta-adrenergic làm giảm khả năng đáp ứng với những kích thích phản xạ qua trung gian bêta-adrenergic, sự ngưng điều trị đột ngột với atenolol có thể kéo theo những các biến chứng trầm trọng (xem Chú ý đề phòng). Một vài bệnh nhân dùng các thuốc ức chế bêta-adrenergic đã bị tụt huyết áp nặng kéo dài trong khi gây mê. Cũng đã có những trường hợp gặp khó khăn khi tái tạo và duy trì nhịp tim trở lại. Vì những lý do trên, ở bệnh nhân đau thắt ngực chịu phẫu thuật chọn lọc, nên ngưng atenolol một cách cẩn thận theo những khuyến cáo trong phần Ngưng thuốc đột ngột (xem Chú ý đề phòng). Theo những bằng chứng có được, tất cả những tác dụng lâm sàng và sinh lý của sự ức chế bêta không kéo dài quá 72 giờ sau khi ngưng dùng thuốc. Trong phẫu thuật cấp cứu, do atenolol là một tác nhân ức chế cạnh tranh của chất chủ vận trên thụ thể bêta-adrenergic, nó có thể gây tác động ngược lại, nếu cần thiết, bằng những liều lượng đầy đủ của những chất chủ vận như isoproterenol hay levarterenol. - Sử dụng cho trẻ em: Không có cuộc thí nghiệm điều trị atenolol cho trẻ em. CHÚ Ý ÐỀ PHÒNG Suy tim: Nên đặc biệt cẩn thận khi dùng Atenolol cho bệnh nhân có tiền sử suy tim. Kích thích giao cảm là một thành phần thiết yếu hỗ trợ cho chức năng tuần hoàn trong suy tim sung huyết, và sự ức chế với chất ức chế bêta luôn luôn đi kèm theo khả năng xảy ra nguy cơ làm giảm khả năng co bóp cơ tim và làm suy tim. Atenolol tác động một cách chọn lọc không làm loại bỏ hoạt tính inotrope của digitalis trên cơ tim. Tuy nhiên, tác động inotrope dương tính của digitalis có thể bị giảm do tác động inotrope âm tính của atenolol khi hai thuốc được sử dụng đồng thời. Tác động của các chất ức chế bêta với digitalis là đồng vận trong việc làm giảm sự dẫn truyền nhĩ thất. Trên bệnh nhân không có tiền sử suy tim, suy yếu cơ tim liên tục qua một thời gian, trong một vài trường hợp, sẽ dẫn đến suy tim. Do đó, ngay khi có dấu hiệu đầu tiên dẫn đến suy tim, bệnh nhân nên được cho dùng digitalis đầy đủ và/hoặc một thuốc lợi tiểu và theo dõi cẩn thận sự đáp ứng. Nếu sự suy tim vẫn tiếp tục mặc dù đã cho đầy đủ digitalis và thuốc lợi tiểu, nên ngưng lập tức trị liệu với atenolol. Ngưng đột ngột việc điều trị với Atenolol: bệnh nhân đau thắt ngực nên được cảnh cáo không được ngưng đột ngột atenolol. Ðã có những báo cáo về sự tăng vọt chứng đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim hay loạn nhịp thất xảy ra trên bệnh nhân bị đau thắt ngực sau khi ngưng đột ngột các thuốc chẹn bêta. Hai biến chứng sau cùng có thể xảy ra có hay không có cơn đau thắt ngực báo trước. Do đó, khi dự tính ngưng dùng atenolol ở bệnh nhân đau thắt ngực, nên giảm liều dần dần trong vòng hai tuần lễ, theo dõi bệnh nhân thật kỹ và nên giới hạn các hoạt động thể lực đến mức thấp nhất. Nên giử nguyên khoảng thời gian dùng thuốc. Trong những trường hợp khẩn cấp hơn, nên ngưng atenolol từng bậc trong một khoảng thời gian ngắn hơn và theo dõi kỹ càng hơn. Nếu đau thắt ngực trở nên nặng hơn đáng kể hay xuất hiện thiểu năng mạch vành cấp, nên dùng atenolol trở lại ngay lập tức, ít nhất cũng tạm thời trong thời gian này. Hội chứng mắt-niêm mạc-da: Các chứng nổi ban da và khô kết mạc đã được báo cáo xảy ra với các thuốc ức chế bêta trong đó có atenolol. Một hội chứng trầm trọng (Hội chứng mắt-niêm mạc-da) có các dấu hiệu bao gồm viêm kết mạc khô và nổi ban dạng vảy nến, viêm tai và viêm thanh mạc gây cứng đã xảy ra khi dùng lâu dài một thuốc ức chế bêta-adrenergic (practolol). Hội chứng này không được nhận thấy với atenolol hay những thuốc tương tự. Tuy nhiên, bác sĩ nên cảnh giác với khả năng xảy ra những phản ứng như trên và nên ngưng dùng thuốc nếu chúng có xảy ra. Chậm nhịp xoang: Chậm nhịp xoang nặng có thể xảy ra khi sử dụng atenolol do tác động không đối lập của dây thần kinh phế vị vẫn còn duy trì sau khi phong tỏa thụ thể bêta 1-adregenic; trong những trường hợp như thế, nên giảm liều. Trên bệnh nhân nhiễm độc giáp: Trên bệnh nhân nhiễm độc giáp, chưa xác định được các ảnh hưởng có hại có thể xảy ra do sử dụng lâu dài atenolol. Sự phong tỏa bêta có thể che giấu các dấu hiệu lâm sàng của nhiễm độc giáp kéo dài hay các biến chứng của nó và cho một cảm tưởng cải thiện bệnh giả tạo. Do đó, sự ngưng atenolol đột ngột có thể kéo theo một sự tăng vọt các triệu chứng cường giáp, bao gồm những cơn bão giáp. LÚC CÓ THAI VÀ LÚC NUÔI CON BÚ Lúc có thai: Atenolol đã được chứng minh làm gia tăng có phụ thuộc vào liều lượng sẩy thai ở chuột cống với liều lượng bằng hay lớn hơn 50mg/kg hoặc 25 lần liều khuyến cáo dùng cho người. Không có nghiên cứu đầy đủ và kiểm soát kỹ được thực hiện trên phụ nữ có thai. Các nghiên cứu trên người đã chứng tỏ rằng atenolol thật sự có đi qua nhau thai với nồng độ thuốc trong huyết thanh của thai nhi tương đương với nồng độ của người mẹ. Sự tích tụ hầu như không xảy ra trên thai nhi. Chỉ có giới hạn một vài thông tin về sử dụng atenolol trên phụ nữ có thai ở một vài người được cho uống thuốc trong giai đoạn ba tháng cuối thai kỳ. Chỉ nên dùng atenolol lúc có thai nếu lợi ích mong đợi cao hơn nguy cơ có thể xảy ra cho thai nhi. Lúc nuôi con bú: Ở người, atenolol được bài tiết qua sữa mẹ. Nếu xét thấy cần thiết phải sử dụng atenolol, người mẹ nên ngưng cho con bú.
Chống chỉ định với Atenolol
Atenolol không nên dùng trong những trường hợp: - chậm nhịp xoang. - bloc nhĩ thất độ hai và ba. - suy thất phải thứ phát do tăng áp phổi. - suy tim sung huyết. - sốc tim. - gây vô cảm với những tác nhân làm suy cơ tim như ether. - quá mẫn với atenolol.
Tương tác thuốc của Atenolol
Nếu quyết định ngưng điều trị ở bệnh nhân dùng các tác nhân ức chế bêta và clonidine đồng thời, nên ngưng thuốc ức chế bêta vài ngày trước khi ngưng từ từ clonidine. Ðã có đề nghị rằng việc ngưng dùng clonidine trong khi đang dùng thuốc ức chế bêta có thể làm nặng hơn hội chứng xảy ra do ngưng clonidine (xem thông tin kê toa của clonidine). Bệnh nhân dùng thuốc làm cạn kiệt catecholamine, như reserpin hay guanethidine, nên được theo dõi cẩn thận vì tác động ức chế bêta-adrenergic thêm vào có thể tạo ra một sự giảm hoạt động giao cảm quá độ. Không nên dùng atenolol kết hợp với những thuốc ức chế bêta khác.
Tác dụng phụ của Atenolol
Tác dụng ngoại ý trầm trọng nhất gặp phải là suy tim sung huyết, bloc nhĩ thất và co thắt phế quản. Tác động ngoại ý thường được báo cáo nhiều nhất trong những thử nghiệm lâm sàng với atenolol là chậm tim (3%), chóng mặt (3%), choáng váng (2%), mệt mỏi (3%), tiêu chảy (2%) và buồn nôn (3%). Các tác dụng ngoại ý phân loại theo hệ cơ quan như sau: Tim mạch: Suy tim xung huyết (xem Chú ý đề phòng), chậm nhịp tim nặng, bloc nhĩ thất, đánh trống ngực, kéo dài đoạn P-R, đau ngực, choáng váng và hạ huyết áp thế đứng, hiện tượng Raynaud, khập khểnh, đau chân và lạnh tay chân, phù nề. Hô hấp: Khó thở, thở khò khè, ho, co thắt phế quản. Hệ thần kinh trung ương: Nhức đầu, chóng mặt, ngất, mất điều hòa, mệt mỏi, ngủ lịm, lo lắng, trầm cảm, buồn ngủ, giấc mơ sâu đậm, mất ngủ, dị cảm, ù tai. Hệ tiêu hóa: Ðau bụng, khó tiêu, tiêu chảy, buồn nôn, chán ăn. Linh tinh: Nổi ban da, ngứa và/hoặc khô mắt, giảm dung nạp vận động, chảy máu cam, cơn bừng hỏa, bất lực, giảm tình dục, đổ mồ hôi, đau nhức toàn thân. Các tác dụng ngoại ý sau có xảy ra với các thuốc ức chế bêta nhưng không có báo cáo xuất hiện với atenolol: Tim mạch: phù phổi, to tim, cơn bừng hỏa, ngất, và ngưng nhịp xoang. Hệ thần kinh trung ương: tính tình hung hăng, lú lẫn, bồn chồn và ảo giác. Hô hấp: co thắt thanh quản và hen suyễn. Da liễu: viêm da tróc vảy. Nhãn khoa: nhìn mờ, cảm giác nóng bỏng và rối loạn thị lực. Huyết học: ban xuất huyết giảm tiểu cầu.
Quá liều khi dùng Atenolol
Dấu hiệu thường gặp nhất trong quá liều một thuốc ức chế bêta-adrenergic là tim chậm, suy tim sung huyết, tụt huyết áp, co thắt phế quản và hạ đường huyết. Nếu bị quá liều, trong tất cả mọi trường hợp, nên ngưng atenolol và theo dõi bệnh nhân thật cẩn thận. Thêm vào đó, thực hiện các biện pháp sau nếu cần thiết: - Tim chậm: Atropine hay một thuốc kháng cholinergic khác - Bloc tim (độ hai hoặc ba): Isoproterenol hay chất tạo nhịp tim qua tĩnh mạch. - Suy tim sung huyết: Các trị liệu hiện hành. - Hạ huyết áp: (tùy thuộc vào tác nhân đi kèm) Epinephrine tốt hơn isoproterenol hay norepinephrine có thể được dùng kèm theo atropine và digitalis (xem Thận trọng lúc dùng về sự sử dụng epinephrine trên bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế bêta). - Co thắt phế quản: aminophylline hay isoproterenol. - Hạ đường huyết: truyền tĩnh mạch glucose. Nên nhớ rằng atenolol là chất đối kháng tương tranh với isoproterenol và do đó, một lượng lớn isoproterenol có thể được mong đợi làm đảo ngược lại nhiều tác dụng của các liều quá độ atenolol. Tuy nhiên không nên xem nhẹ các biến chứng của việc sử dụng quá liều isoproterenol.
Đề phòng khi dùng Atenolol
- Bệnh nhân suy thận, suy tim, co thắt phế quản, bệnh nhân đái tháo đường & bị tụt đường huyết. - Phụ nữ có thai & cho con bú tránh dùng.
Bảo quản Atenolol
Nên bảo quản tránh ẩm và ánh sáng. Tồn trữ thuốc ở nhiệt độ 15-30 độ C.