Sau khi uống, tibolone được nhanh chóng chuyển hóa thành ba hợp chất, tất cả đều góp phần vào đặc tính dược lực học của Tibolone. Hai chất chuyển hóa (3alfa-OH-tibolone và 3 beta-OH-tibolone) có hoạt tính estrogen, trong khi chất chuyển hóa thứ ba (chất đồng phân d4 của tibolone) có hoạt tính progestogen và androgen. Nhờ các hoạt tính phối hợp của tibolone và những chất chuyển hóa của nó, nên Tibolone có các tác dụng đặc hiệu theo mô (Tibolone thuộc nhóm STEAR) như trình bày dưới đây. Các triệu chứng vận mạch: Tibolone có tác dụng estrogen trên các triệu chứng vận mạch (cơn bốc hỏa và đổ mồ hôi). Hai nghiên cứu đối chứng giả dược then chốt, bao gồm 1171 phụ nữ sau mãn kinh, chứng minh rằng điều trị với Tibolone làm giảm tần suất và độ nặng các triệu chứng vận mạch. Các nghiên cứu so sánh cho thấy hiệu quả lâm sàng của Tibolone nói chung tương tự như hiệu quả của liệu pháp hormon thay thế thông thường. Trái với Tibolone và liệu pháp hormon thay thế thông thường, thuốc SERM (các chế phẩm được dùng để dự phòng và điều trị loãng xương) được báo cáo là gây nên các triệu chứng vận mạch. Teo âm đạo: Nhờ tác dụng estrogen đặc hiệu trên âm đạo, Tibolone có tác dụng thuận lợi trên các triệu chứng liên quan với teo âm đạo, như khô âm đạo và giao hợp đau. Hiệu quả lâm sàng tương tự như của liệu pháp hormon thay thế thông thường, trong khi đó SERM không có tác dụng có lợi trên teo âm đạo. Xương: Tác dụng của Tibolone trên xương là qua trung gian thụ thể estrogen. Hai nghiên cứu then chốt và 11 nghiên cứu hỗ trợ, bao gồm 1892 phụ nữ sau mãn kinh, cho thấy điều trị Tibolone trong 6 tháng đến 8 năm làm tăng mật độ khoáng xương ở xương sống và đầu trên xương đùi, và dẫn đến những thay đổi về các thông số sinh hóa của xương. Trong thời gian điều trị bằng Tibolone, sự hủy xương giảm hẳn so với sự tạo xương. Do đó, tác dụng của Tibolone trong đề phòng loãng xương trên phụ nữ sau mãn kinh tương tự như liệu pháp hormon thay thế thông thường và SERM. Các tác dụng thuận lợi khác: Có những dấu hiệu cho thấy Tibolone có tác dụng thuận lợi trên khí sắc và ham muốn tình dục. Trên bệnh nhân đang điều trị với thuốc tương đồng GnRH, Tibolone có hiệu quả làm giảm các triệu chứng vận mạch và mất xương. Nội mạc tử cung Ở nội mạc tử cung, tibolone và chất chuyển hóa 3b-OH có tính chất estrogen của nó được biến đổi thành chất đồng phân d4 có tính chất progestogen/androgen, ngăn chặn hoạt tính estrogen ở mô này. Ðiều này giải thích tại sao Tibolone không kích thích nội mạc tử cung và tại sao không cần phải dùng thêm progestogen. Như vậy, khác với liệu pháp hormon thay thế theo trình tự, sẽ không xảy ra hiện tượng ra máu do tạm nghỉ thuốc. Hơn nữa, xuất độ ra máu âm đạo với Tibolone thấp hơn một cách có ý nghĩa so với liệu pháp hormon thay thế phối hợp liên tục. Vú: Số liệu in vitro cho thấy tibolone ức chế men sulfatase, qua đó làm giảm nồng độ estrogen có hoạt tính trong mô vú. Ðiều này giải thích tại sao trong các nghiên cứu lâm sàng, xuất độ đau vú thấp hơn một cách có ý nghĩa và mật độ nhũ ảnh không tăng ở những phụ nữ được điều trị bằng Tibolone so với liệu pháp hormon thay thế thông thường. Hệ tim mạch: Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy điều trị với Tibolone làm giảm nồng độ cholesterol toàn phần, HDL-cholesterol, triglyceride toàn phần và lipoprotein trong huyết tương, trong khi nồng độ LDL-cholesterol không thay đổi. Mặc dù giảm nồng độ HDL-cholesterol trong máu, nhưng chức năng của HDL trong sự vận chuyển ngược cholesterol không thay đổi trong thời gian điều trị bằng Tibolone. Ngoài ra, Tibolone có tác dụng trợ tiêu fibrin trên các thông số cầm máu. Sau cùng, trong các nghiên cứu đối chứng với giả dược, nguy cơ tương đối của các tai biến động mạch hoặc tĩnh mạch trên người dùng Tibolone không tăng so với giả dược.
Chỉ định khi dùng Zinvial
- Ðiều trị các triệu chứng do mãn kinh tự nhiên hoặc nhân tạo. - Ðề phòng loãng xương trong các tình trạng thiếu estrogen.
Cách dùng Zinvial
Liều dùng là một viên mỗi ngày. Nên uống thuốc với một ít nước, tốt nhất là vào một giờ nhất định trong ngày. Không cần chỉnh liều trên người cao tuổi. Sự giảm nhẹ triệu chứng thường xảy ra sau vài tuần, nhưng kết quả tối ưu thường đạt được khi điều trị liên tục ít nhất là 3 tháng. Ðể đề phòng loãng xương, cần điều trị lâu dài. Với liều được khuyến nghị, không cần hạn chế thời gian điều trị với Tibolone. Lựa chọn điều trị: Khi quyết định chọn dùng Tibolone hoặc một thuốc khác cho một phụ nữ sau mãn kinh cụ thể, nên xem xét kỹ về chỉ định điều trị; khả năng chấp nhận ra máu âm đạo; những triệu chứng có thể có về khí sắc và ham muốn tình dục; ảnh hưởng trên mô vú và các lợi ích và nguy cơ khác. Xem thêm các mục Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng và Dược lực. Bắt đầu dùng Tibolone: Những phụ nữ mãn kinh tự nhiên nên bắt đầu điều trị Tibolone ít nhất là 12 tháng sau lần có kinh cuối cùng. Nếu Tibolone được dùng sớm hơn, sẽ tăng nguy cơ ra máu âm đạo không đều hoặc rỉ máu âm đạo. Trong trường hợp mãn kinh nhân tạo (ví dụ do phẫu thuật hoặc do hóa học), có thể bắt đầu điều trị với Tibolone ngay. Chuyển từ liệu pháp hormon thay thế thông thường sang dùng Tibolone: Trên phụ nữ còn tử cung nguyên vẹn đang dùng một chế phẩm chỉ chứa estrogen, nên gây ra máu âm đạo bằng cách dùng progestogen trước khi bắt đầu dùng Tibolone. Nếu thay đổi từ một chế phẩm hormon thay thế phối hợp theo trình tự, nên bắt đầu điều trị Tibolone ngay sau khi hết ra máu do tạm nghỉ thuốc. Nếu đổi từ một liệu pháp hormon thay thế phối hợp liên tục, có thể bắt đầu dùng Tibolone bất cứ lúc nào. Nếu ra máu âm đạo bất thường là lý do để đổi từ liệu pháp hormon thay thế thông thường, nên tìm nguyên nhân ra máu trước khi bắt đầu dùng Tibolone. Quên uống thuốc: Nếu bỏ sót một liều, nên uống ngay mỗi khi nhớ ra, trừ khi đã trễ quá 12 tiếng. Trong trường hợp sau này, nên bỏ qua liều đã quên uống và uống liều kế tiếp vào giờ thường lệ.
Thận trọng khi dùng Zinvial
- Tibolone không phải là thuốc dùng để tránh thai. - Các nghiên cứu gợi ý rằng điều trị với liệu pháp hormon thay thế thông thường hoặc thuốc điều hòa chọn lọc thụ thể estrogen (SERM) đi kèm với tăng gấp 2-3 lần nguy cơ tương đối phát sinh thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch, ví dụ như huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc thuyên tắc phổi. Mặc dù không có số liệu dịch tễ học với Tibolone, nhưng có dấu hiệu cho thấy thuốc này khác với liệu pháp hormon thay thế thông thường và thuốc SERM về nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch, có lẽ do các tác động progestogen/androgen của nó. Tibolone có tác dụng trợ tiêu fibrin trên các thông số cầm máu, và trong các nghiên cứu đối chứng với giả dược, nguy cơ tương đối của thuyên tắc máu khối tĩnh mạch trên phụ nữ được điều trị Tibolone không tăng so với giả dược. Tuy vậy, ý nghĩa lâm sàng của những phát hiện này vẫn chưa được biết rõ. Do đó, cũng như các liệu pháp hormon thay thế thông thường và SERM, nên cân nhắc nguy cơ/lợi ích khi kê toa Tibolone cho những phụ nữ có một yếu tố nguy cơ thuyên tắc máu khối tĩnh mạch (ví dụ tiền sử cá nhân hoặc gia đình có thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch và béo phì nặng). Nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch có thể tạm thời tăng lên khi bất động kéo dài, chấn thương nặng hoặc đại phẫu. Như đối với tất cả các bệnh nhân sau mổ, nên chú ý đến các biện pháp dự phòng để ngăn ngừa thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch sau mổ. Nếu phải bất động kéo dài sau khi mổ chương trình, đặc biệt là mổ bụng hoặc phẫu thuật chỉnh hình chi dưới, nên xem xét tạm thời ngưng dùng Tibolone 4 tuần trước khi mổ. Nếu thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch xuất hiện trong khi đang điều trị với Tibolone, nên ngưng thuốc. - Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy một sự gia tăng nhỏ hoặc vừa về xác suất ung thư vú trên phụ nữ hiện đang hoặc vừa mới dùng liệu pháp hormon thay thế thông thường. Số liệu in vitro lẫn số liệu lâm sàng đều gợi ý rằng tibolone, hoạt chất của Tibolone, có những tác dụng trên mô vú khác với liệu pháp hormon thay thế thông thường (xem Dược lực). Ý nghĩa lâm sàng của những phát hiện này chưa được rõ. Do đó, cũng như với liệu pháp hormon thay thế thông thường, cần cân nhắc nguy cơ/lợi ích khi kê toa Tibolone cho bệnh nhân. Thường xuyên khám vú, và khi thích hợp nên chụp nhũ ảnh, đặc biệt là trên phụ nữ có các yếu tố nguy cơ ung thư vú. - Nên xem xét nguy cơ/lợi ích khi có bệnh gan hoặc tiền sử có bệnh này. Nên ngưng điều trị nếu kết quả xét nghiệm chức năng gan trở nên bất thường, hoặc xuất hiện vàng da tắc mật. - Trong vòng 3 tháng sau khi khởi trị, một số ít phụ nữ có thể bị ra máu hoặc rỉ máu âm đạo, có lẽ do tác dụng còn sót lại của các estrogen nội sinh hoặc ngoại sinh. Ra máu dai dẳng hoặc xuất hiện sau ba tháng điều trị nên được thăm khám một cách thích hợp; tuy nhiên, trong đa số trường hợp thường không tìm thấy nguyên nhân cụ thể của ra máu. - Như tất cả các steroid có hoạt tính hormon, hàng năm nên kiển tra sức khỏe toàn diện. Ảnh hưởng trên khả năng lái xe và sử dụng máy móc: Tibolone không có ảnh hưởng gì trên sự tỉnh táo và tập trung. LÚC CÓ THAI VÀ LÚC NUÔI CON BÚ Không có đủ số liệu về việc sử dụng Tibolone trên phụ nữ có thai. Nghiên cứu trên động vật cho thấy độc tính sinh sản (xem An toàn tiền lâm sàng). Vì không rõ nguy cơ tiềm năng trên người, nên Tibolone bị chống chỉ định trong thời gian có thai và nuôi con bằng sữa mẹ.
Chống chỉ định với Zinvial
Không nên dùng Tibolone nếu có một trong những tình trạng được nêu dưới đây. Nếu xuất hiện bất cứ tình trạng nào dưới đây trong thời gian đang dùng Tibolone, nên ngưng điều trị ngay tức thì. - Có thai và nuôi con bằng sữa mẹ. - Ðã biết hoặc nghi ngờ có bệnh ác tính chịu ảnh hưởng bởi các steroid sinh dục, đặc biệt là ung thư vú và ung thư nội mạc tử cung. - Huyết khối tĩnh mạch sâu, các rối loạn thuyên tắc huyết khối, hoặc bệnh sử có bằng chứng về những bệnh này. - Ra máu âm đạo không rõ nguyên nhân. - Rối loạn chức năng gan nặng. - Tiền sử dị ứng với lactose. - Tiền sử dị ứng với bất cứ thành phần nào khác trong Tibolone.
Tương tác thuốc của Zinvial
Vì Tibolone có thể làm tăng hoạt tính tiêu fibrin trong máu, nên có thể làm tăng tác dụng của thuốc kháng đông. Tác dụng này đã được chứng minh với warfarin. Do đó, nên theo dõi khi dùng đồng thời Tibolone và warfarin, và nên chỉnh liều warfarin một cách thích hợp. Các nghiên cứu in vitro chỉ phát hiện thấy những tương tác tối thiểu giữa tibolone với các men cytochrome P450. Do đó, Tibolone ít có khả năng có vai trò ức chế có ý nghĩa lâm sàng trên các men cytochrome P450, và Tibolone cũng ít có khả năng bị ảnh hưởng bởi các thuốc khác được biết có tương tác với các men cytochrome P450. Việc đồng thời sử dụng Tibolone và liệu pháp hormon thay thế thông thường chưa được nghiên cứu, do đó không được khuyên dùng.
Tác dụng phụ của Zinvial
Mục này mô tả những tác dụng không mong muốn, được ghi nhận qua 16 nghiên cứu đối chứng với giả dược, với 1463 phụ nữ dùng tibolone ở liều điều trị 855 phụ nữ dùng giả dược. Thời gian điều trị trong các nghiên cứu này thay đổi từ 2 đến 24 tháng. So với giả dược, những tác dụng không mong muốn sau đây thường xảy ra một cách có ý nghĩa thống kê trong khi điều trị với tibolone và hay gặp hơn (từ 1-10%): ra máu hoặc rỉ máu âm đạo, khí hư, đau bụng, tăng cân, đau vú, rậm lông, ngứa cơ quan sinh dục, nấm cơ quan sinh dục, viêm âm đạo (xảy ra theo tần suất giảm dần). Ít gặp chứng quên (từ 0,1-1%). Trong số những tác dụng không mong muốn này, ra máu hoặc rỉ máu âm đạo, đau bụng và đau vú chủ yếu xảy ra trong những tháng đầu điều trị rồi sau đó giảm đi. Khi thuốc được đưa ra thị trường, ngoài những tác dụng không mong muốn trên thuốc còn có một số tác dụng không mong muốn khác như nhức đầu, phù và chóng mặt. Tuy nhiên, trong các thử nghiệm lâm sàng so sánh tibolone với giả dược, không thấy những tác dụng sau này thường xuyên xảy ra một cách có ý nghĩa thống kê, gợi ý rằng những tác dụng phụ này không liên quan đến tibolone. Có báo cáo cho thấy quá sản nội mạc tử cung và ung thư nội mạc tử cung trên bệnh nhân điều trị tibolone, mặc dù không chứng minh được mối quan hệ nhân-quả.
Quá liều khi dùng Zinvial
Ðộc tính cấp của tibolone trên động vật rất thấp. Do đó, sẽ không xảy ra các triệu chứng nhiễm độc, ngay cả khi uống nhiều viên thuốc cùng một lượt. Trong trường hợp quá liều cấp tính, có thể xảy ra buồn nôn, ói mửa, và ra máu âm đạo ở phụ nữ. Không có thuốc giải độc đặc hiệu. Nếu cần, có thể điều trị triệu chứng.
Bảo quản Zinvial
Bảo qủan trong bao bì gốc trong hộp carton ở 2-25 độ C.
Dùng Zinvial theo chỉ định của Bác sĩ
Hướng dẫn dùng thuốc có thành phần tibolone
Nhóm thuốc
Hocmon, Nội tiết tố
Thành phần
Tibolone
Dược lực của Tibolone
Tibolone có các hoạt tính estrogen, progestogen và androgen.
Dược động học của Tibolone
Sau khi uống, tibolone được hấp thu nhanh chóng và đều khắp. Nhờ chuyển hóa nhanh, nên nồng độ tibolone trong máu rất thấp. Nồng độ chất đồng phân d4 của tibolone trong máu cũng rất thấp. Nồng độ đỉnh trong huyết tương của các chất chuyển hóa 3alfa-OH và 3beta-OH cao hơn và đạt được sau 1-1,5 giờ, thời gian bán thải của chúng khoảng chừng 7 giờ và không xảy ra sự tích lũy thuốc. Tibolone được bài tiết chủ yếu dưới dạng các chất chuyển hóa liên hợp (phần lớn là sulfat-hóa). Một phần lượng thuốc uống vào được bài tiết trong nước tiểu, còn phần lớn được thải trừ qua phân. Việc ăn uống không ảnh hưởng có ý nghĩa đến mức độ hấp thu thuốc. Các thông số dược động học của tibolone và những chất chuyển hóa của nó tỏ ra độc lập với chức năng thận.
Tác dụng của Tibolone
Sau khi uống, tibolone được nhanh chóng chuyển hóa thành ba hợp chất, tất cả đều góp phần vào đặc tính dược lực học của Tibolone. Hai chất chuyển hóa (3alfa-OH-tibolone và 3 beta-OH-tibolone) có hoạt tính estrogen, trong khi chất chuyển hóa thứ ba (chất đồng phân d4 của tibolone) có hoạt tính progestogen và androgen. Nhờ các hoạt tính phối hợp của tibolone và những chất chuyển hóa của nó, nên Tibolone có các tác dụng đặc hiệu theo mô (Tibolone thuộc nhóm STEAR) như trình bày dưới đây. Các triệu chứng vận mạch: Tibolone có tác dụng estrogen trên các triệu chứng vận mạch (cơn bốc hỏa và đổ mồ hôi). Hai nghiên cứu đối chứng giả dược then chốt, bao gồm 1171 phụ nữ sau mãn kinh, chứng minh rằng điều trị với Tibolone làm giảm tần suất và độ nặng các triệu chứng vận mạch. Các nghiên cứu so sánh cho thấy hiệu quả lâm sàng của Tibolone nói chung tương tự như hiệu quả của liệu pháp hormon thay thế thông thường. Trái với Tibolone và liệu pháp hormon thay thế thông thường, thuốc SERM (các chế phẩm được dùng để dự phòng và điều trị loãng xương) được báo cáo là gây nên các triệu chứng vận mạch. Teo âm đạo: Nhờ tác dụng estrogen đặc hiệu trên âm đạo, Tibolone có tác dụng thuận lợi trên các triệu chứng liên quan với teo âm đạo, như khô âm đạo và giao hợp đau. Hiệu quả lâm sàng tương tự như của liệu pháp hormon thay thế thông thường, trong khi đó SERM không có tác dụng có lợi trên teo âm đạo. Xương: Tác dụng của Tibolone trên xương là qua trung gian thụ thể estrogen. Hai nghiên cứu then chốt và 11 nghiên cứu hỗ trợ, bao gồm 1892 phụ nữ sau mãn kinh, cho thấy điều trị Tibolone trong 6 tháng đến 8 năm làm tăng mật độ khoáng xương ở xương sống và đầu trên xương đùi, và dẫn đến những thay đổi về các thông số sinh hóa của xương. Trong thời gian điều trị bằng Tibolone, sự hủy xương giảm hẳn so với sự tạo xương. Do đó, tác dụng của Tibolone trong đề phòng loãng xương trên phụ nữ sau mãn kinh tương tự như liệu pháp hormon thay thế thông thường và SERM. Các tác dụng thuận lợi khác: Có những dấu hiệu cho thấy Tibolone có tác dụng thuận lợi trên khí sắc và ham muốn tình dục. Trên bệnh nhân đang điều trị với thuốc tương đồng GnRH, Tibolone có hiệu quả làm giảm các triệu chứng vận mạch và mất xương. Nội mạc tử cung Ở nội mạc tử cung, tibolone và chất chuyển hóa 3b-OH có tính chất estrogen của nó được biến đổi thành chất đồng phân d4 có tính chất progestogen/androgen, ngăn chặn hoạt tính estrogen ở mô này. Ðiều này giải thích tại sao Tibolone không kích thích nội mạc tử cung và tại sao không cần phải dùng thêm progestogen. Như vậy, khác với liệu pháp hormon thay thế theo trình tự, sẽ không xảy ra hiện tượng ra máu do tạm nghỉ thuốc. Hơn nữa, xuất độ ra máu âm đạo với Tibolone thấp hơn một cách có ý nghĩa so với liệu pháp hormon thay thế phối hợp liên tục. Vú: Số liệu in vitro cho thấy tibolone ức chế men sulfatase, qua đó làm giảm nồng độ estrogen có hoạt tính trong mô vú. Ðiều này giải thích tại sao trong các nghiên cứu lâm sàng, xuất độ đau vú thấp hơn một cách có ý nghĩa và mật độ nhũ ảnh không tăng ở những phụ nữ được điều trị bằng Tibolone so với liệu pháp hormon thay thế thông thường. Hệ tim mạch: Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy điều trị với Tibolone làm giảm nồng độ cholesterol toàn phần, HDL-cholesterol, triglyceride toàn phần và lipoprotein trong huyết tương, trong khi nồng độ LDL-cholesterol không thay đổi. Mặc dù giảm nồng độ HDL-cholesterol trong máu, nhưng chức năng của HDL trong sự vận chuyển ngược cholesterol không thay đổi trong thời gian điều trị bằng Tibolone. Ngoài ra, Tibolone có tác dụng trợ tiêu fibrin trên các thông số cầm máu. Sau cùng, trong các nghiên cứu đối chứng với giả dược, nguy cơ tương đối của các tai biến động mạch hoặc tĩnh mạch trên người dùng Tibolone không tăng so với giả dược.
Chỉ định khi dùng Tibolone
- Ðiều trị các triệu chứng do mãn kinh tự nhiên hoặc nhân tạo. - Ðề phòng loãng xương trong các tình trạng thiếu estrogen.
Cách dùng Tibolone
Liều dùng là một viên mỗi ngày. Nên uống thuốc với một ít nước, tốt nhất là vào một giờ nhất định trong ngày. Không cần chỉnh liều trên người cao tuổi. Sự giảm nhẹ triệu chứng thường xảy ra sau vài tuần, nhưng kết quả tối ưu thường đạt được khi điều trị liên tục ít nhất là 3 tháng. Ðể đề phòng loãng xương, cần điều trị lâu dài. Với liều được khuyến nghị, không cần hạn chế thời gian điều trị với Tibolone. Lựa chọn điều trị: Khi quyết định chọn dùng Tibolone hoặc một thuốc khác cho một phụ nữ sau mãn kinh cụ thể, nên xem xét kỹ về chỉ định điều trị; khả năng chấp nhận ra máu âm đạo; những triệu chứng có thể có về khí sắc và ham muốn tình dục; ảnh hưởng trên mô vú và các lợi ích và nguy cơ khác. Xem thêm các mục Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng và Dược lực. Bắt đầu dùng Tibolone: Những phụ nữ mãn kinh tự nhiên nên bắt đầu điều trị Tibolone ít nhất là 12 tháng sau lần có kinh cuối cùng. Nếu Tibolone được dùng sớm hơn, sẽ tăng nguy cơ ra máu âm đạo không đều hoặc rỉ máu âm đạo. Trong trường hợp mãn kinh nhân tạo (ví dụ do phẫu thuật hoặc do hóa học), có thể bắt đầu điều trị với Tibolone ngay. Chuyển từ liệu pháp hormon thay thế thông thường sang dùng Tibolone: Trên phụ nữ còn tử cung nguyên vẹn đang dùng một chế phẩm chỉ chứa estrogen, nên gây ra máu âm đạo bằng cách dùng progestogen trước khi bắt đầu dùng Tibolone. Nếu thay đổi từ một chế phẩm hormon thay thế phối hợp theo trình tự, nên bắt đầu điều trị Tibolone ngay sau khi hết ra máu do tạm nghỉ thuốc. Nếu đổi từ một liệu pháp hormon thay thế phối hợp liên tục, có thể bắt đầu dùng Tibolone bất cứ lúc nào. Nếu ra máu âm đạo bất thường là lý do để đổi từ liệu pháp hormon thay thế thông thường, nên tìm nguyên nhân ra máu trước khi bắt đầu dùng Tibolone. Quên uống thuốc: Nếu bỏ sót một liều, nên uống ngay mỗi khi nhớ ra, trừ khi đã trễ quá 12 tiếng. Trong trường hợp sau này, nên bỏ qua liều đã quên uống và uống liều kế tiếp vào giờ thường lệ.
Thận trọng khi dùng Tibolone
- Tibolone không phải là thuốc dùng để tránh thai. - Các nghiên cứu gợi ý rằng điều trị với liệu pháp hormon thay thế thông thường hoặc thuốc điều hòa chọn lọc thụ thể estrogen (SERM) đi kèm với tăng gấp 2-3 lần nguy cơ tương đối phát sinh thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch, ví dụ như huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc thuyên tắc phổi. Mặc dù không có số liệu dịch tễ học với Tibolone, nhưng có dấu hiệu cho thấy thuốc này khác với liệu pháp hormon thay thế thông thường và thuốc SERM về nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch, có lẽ do các tác động progestogen/androgen của nó. Tibolone có tác dụng trợ tiêu fibrin trên các thông số cầm máu, và trong các nghiên cứu đối chứng với giả dược, nguy cơ tương đối của thuyên tắc máu khối tĩnh mạch trên phụ nữ được điều trị Tibolone không tăng so với giả dược. Tuy vậy, ý nghĩa lâm sàng của những phát hiện này vẫn chưa được biết rõ. Do đó, cũng như các liệu pháp hormon thay thế thông thường và SERM, nên cân nhắc nguy cơ/lợi ích khi kê toa Tibolone cho những phụ nữ có một yếu tố nguy cơ thuyên tắc máu khối tĩnh mạch (ví dụ tiền sử cá nhân hoặc gia đình có thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch và béo phì nặng). Nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch có thể tạm thời tăng lên khi bất động kéo dài, chấn thương nặng hoặc đại phẫu. Như đối với tất cả các bệnh nhân sau mổ, nên chú ý đến các biện pháp dự phòng để ngăn ngừa thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch sau mổ. Nếu phải bất động kéo dài sau khi mổ chương trình, đặc biệt là mổ bụng hoặc phẫu thuật chỉnh hình chi dưới, nên xem xét tạm thời ngưng dùng Tibolone 4 tuần trước khi mổ. Nếu thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch xuất hiện trong khi đang điều trị với Tibolone, nên ngưng thuốc. - Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy một sự gia tăng nhỏ hoặc vừa về xác suất ung thư vú trên phụ nữ hiện đang hoặc vừa mới dùng liệu pháp hormon thay thế thông thường. Số liệu in vitro lẫn số liệu lâm sàng đều gợi ý rằng tibolone, hoạt chất của Tibolone, có những tác dụng trên mô vú khác với liệu pháp hormon thay thế thông thường (xem Dược lực). Ý nghĩa lâm sàng của những phát hiện này chưa được rõ. Do đó, cũng như với liệu pháp hormon thay thế thông thường, cần cân nhắc nguy cơ/lợi ích khi kê toa Tibolone cho bệnh nhân. Thường xuyên khám vú, và khi thích hợp nên chụp nhũ ảnh, đặc biệt là trên phụ nữ có các yếu tố nguy cơ ung thư vú. - Nên xem xét nguy cơ/lợi ích khi có bệnh gan hoặc tiền sử có bệnh này. Nên ngưng điều trị nếu kết quả xét nghiệm chức năng gan trở nên bất thường, hoặc xuất hiện vàng da tắc mật. - Trong vòng 3 tháng sau khi khởi trị, một số ít phụ nữ có thể bị ra máu hoặc rỉ máu âm đạo, có lẽ do tác dụng còn sót lại của các estrogen nội sinh hoặc ngoại sinh. Ra máu dai dẳng hoặc xuất hiện sau ba tháng điều trị nên được thăm khám một cách thích hợp; tuy nhiên, trong đa số trường hợp thường không tìm thấy nguyên nhân cụ thể của ra máu. - Như tất cả các steroid có hoạt tính hormon, hàng năm nên kiển tra sức khỏe toàn diện. Ảnh hưởng trên khả năng lái xe và sử dụng máy móc: Tibolone không có ảnh hưởng gì trên sự tỉnh táo và tập trung. LÚC CÓ THAI VÀ LÚC NUÔI CON BÚ Không có đủ số liệu về việc sử dụng Tibolone trên phụ nữ có thai. Nghiên cứu trên động vật cho thấy độc tính sinh sản (xem An toàn tiền lâm sàng). Vì không rõ nguy cơ tiềm năng trên người, nên Tibolone bị chống chỉ định trong thời gian có thai và nuôi con bằng sữa mẹ.
Chống chỉ định với Tibolone
Không nên dùng Tibolone nếu có một trong những tình trạng được nêu dưới đây. Nếu xuất hiện bất cứ tình trạng nào dưới đây trong thời gian đang dùng Tibolone, nên ngưng điều trị ngay tức thì. - Có thai và nuôi con bằng sữa mẹ. - Ðã biết hoặc nghi ngờ có bệnh ác tính chịu ảnh hưởng bởi các steroid sinh dục, đặc biệt là ung thư vú và ung thư nội mạc tử cung. - Huyết khối tĩnh mạch sâu, các rối loạn thuyên tắc huyết khối, hoặc bệnh sử có bằng chứng về những bệnh này. - Ra máu âm đạo không rõ nguyên nhân. - Rối loạn chức năng gan nặng. - Tiền sử dị ứng với lactose. - Tiền sử dị ứng với bất cứ thành phần nào khác trong Tibolone.
Tương tác thuốc của Tibolone
Vì Tibolone có thể làm tăng hoạt tính tiêu fibrin trong máu, nên có thể làm tăng tác dụng của thuốc kháng đông. Tác dụng này đã được chứng minh với warfarin. Do đó, nên theo dõi khi dùng đồng thời Tibolone và warfarin, và nên chỉnh liều warfarin một cách thích hợp. Các nghiên cứu in vitro chỉ phát hiện thấy những tương tác tối thiểu giữa tibolone với các men cytochrome P450. Do đó, Tibolone ít có khả năng có vai trò ức chế có ý nghĩa lâm sàng trên các men cytochrome P450, và Tibolone cũng ít có khả năng bị ảnh hưởng bởi các thuốc khác được biết có tương tác với các men cytochrome P450. Việc đồng thời sử dụng Tibolone và liệu pháp hormon thay thế thông thường chưa được nghiên cứu, do đó không được khuyên dùng.
Tác dụng phụ của Tibolone
Mục này mô tả những tác dụng không mong muốn, được ghi nhận qua 16 nghiên cứu đối chứng với giả dược, với 1463 phụ nữ dùng tibolone ở liều điều trị 855 phụ nữ dùng giả dược. Thời gian điều trị trong các nghiên cứu này thay đổi từ 2 đến 24 tháng. So với giả dược, những tác dụng không mong muốn sau đây thường xảy ra một cách có ý nghĩa thống kê trong khi điều trị với tibolone và hay gặp hơn (từ 1-10%): ra máu hoặc rỉ máu âm đạo, khí hư, đau bụng, tăng cân, đau vú, rậm lông, ngứa cơ quan sinh dục, nấm cơ quan sinh dục, viêm âm đạo (xảy ra theo tần suất giảm dần). Ít gặp chứng quên (từ 0,1-1%). Trong số những tác dụng không mong muốn này, ra máu hoặc rỉ máu âm đạo, đau bụng và đau vú chủ yếu xảy ra trong những tháng đầu điều trị rồi sau đó giảm đi. Khi thuốc được đưa ra thị trường, ngoài những tác dụng không mong muốn trên thuốc còn có một số tác dụng không mong muốn khác như nhức đầu, phù và chóng mặt. Tuy nhiên, trong các thử nghiệm lâm sàng so sánh tibolone với giả dược, không thấy những tác dụng sau này thường xuyên xảy ra một cách có ý nghĩa thống kê, gợi ý rằng những tác dụng phụ này không liên quan đến tibolone. Có báo cáo cho thấy quá sản nội mạc tử cung và ung thư nội mạc tử cung trên bệnh nhân điều trị tibolone, mặc dù không chứng minh được mối quan hệ nhân-quả.
Quá liều khi dùng Tibolone
Ðộc tính cấp của tibolone trên động vật rất thấp. Do đó, sẽ không xảy ra các triệu chứng nhiễm độc, ngay cả khi uống nhiều viên thuốc cùng một lượt. Trong trường hợp quá liều cấp tính, có thể xảy ra buồn nôn, ói mửa, và ra máu âm đạo ở phụ nữ. Không có thuốc giải độc đặc hiệu. Nếu cần, có thể điều trị triệu chứng.
Bảo quản Tibolone
Bảo qủan trong bao bì gốc trong hộp carton ở 2-25 độ C.